Nguyễn Sĩ Hạnh dịch từ bản dịch tiếng Anh của Alison L. Strayer https://www.nobelprize.org/prizes/literature/2022/ernaux/lecture/

Bắt đầu từ đâu đây? Tôi đã tự hỏi mình câu hỏi này hàng chục lần, nhìn chăm chăm vào một trang giấy trắng. Như thể tôi cần tìm một câu, một câu duy nhất – đại loại như một chìa khóa – để cho tôi bắt đầu chuyện viết cuốn sách và xóa bỏ mọi nghi ngờ ngay tức thì. Hôm nay, sau khi đã qua khỏi trạng thái bàng hoàng lúc đầu – với câu hỏi như “Có thực là tôi đã được trao giải Nobel văn chương?” – khi đối mặt với một tình huống mà mối lo ngại mỗi lúc mỗi tăng trong trí tưởng. Tìm ra được câu này sẽ cho tôi tự do và vững tâm để phát biểu mà không run sợ ở đây, nơi mà quý vị đã mời tôi tối nay.

Để tìm câu đó, tôi không cần phải đi đâu xa. Nó xuất hiện ngay tức thì. Rõ ràng và mãnh liệt. Ngắn gọn. Không thể chối cãi. Viết trong nhật ký của tôi sáu mươi năm trước. ‘Tôi sẽ viết để trả thù cho cộng đồng của tôi, j’écrirai pour venger ma race’. Câu này vang vọng lời kêu than của Rimbaud: “Mãi mãi tôi thuộc về một cộng đồng thấp kém”. Tôi hai mươi hai tuổi, theo học văn chương ở một trường đại học tỉnh lẻ, bạn học phần lớn là những con cái của giai cấp tư sản địa phương. Tôi tự hào và ngây thơ tin rằng viết sách, trở thành nhà văn, như là người sau cùng trong hàng lớp những người lao động vô sản, công nhân nhà máy và tiểu thương – những người bị coi thường về cách cư xử, giọng nói, sự thiếu giáo dục của họ – sẽ đủ để khắc phục bất công của xã hội xuất phát từ tầng lớp xuất thân. Rằng một chiến thắng cá nhân có thể xóa bỏ hàng thế kỷ thống trị và nghèo đói, một ảo tưởng mà trường học đã nuôi dưỡng trong tôi nhờ vào thành tích học tập của mình. Làm sao mà thành tựu cá nhân của tôi có thể chuộc lại được phần nào những chịu đựng sỉ nhục và xúc phạm? Đây là câu hỏi tôi chưa từng bao giờ tự đặt ra. Và tôi đã có một vài lời bào chữa.

Từ khi tôi biết đọc, sách là bạn đồng hành của tôi, và đọc sách là việc làm tự nhiên của tôi ngoài giờ học ở trường. Lòng khao khát này được mẹ tôi nuôi dưỡng. Bà là người, giữa những lúc tiếp xúc khách hàng đến cửa hàng của bà, đọc rất nhiều tiểu thuyết và thích tôi đọc sách hơn là may vá và đan thêu. Giá sách đắt, thêm sự nghi kỵ theo cách nhìn của trường đạo tôi theo học, càng làm cho chúng hấp dẫn thêm nữa. Don Quixote, Những chuyến du hành của Gulliver (Gulliver’s Travels), Jane Eyre, truyện cổ tích của Grimm và Andersen, David Copperfield, Cuốn theo chiều gió (Gone with the Wind), và sau đó là Những người khốn khổ (Les Misérables), Chùm nho uất hận (The Grapes of Wrath), Buồn nôn (Nausea), Kẻ xa lạ (The Stranger): những sách tôi đọc, do ngẫu nhiên, hơn là do những chỉ định của trường học.

Bằng cách lựa chọn nghiên cứu văn học, tôi đã quyết định sống với văn chương, điều đã trở thành giá trị lớn nhất, thậm chí là một lối sống khiến tôi hướng tâm trí mình vào những tiểu thuyết của Flaubert hay Virginia Woolf và sống sát thực theo những cuốn sách này. Văn học đại khái là một lục địa mà một cách vô thức tôi đặt mình đối nghịch với môi trường xã hội. Và tôi nhận thức rằng viết không gì khác hơn là khả năng biến đổi hiện thực.

Không phải việc vài ba nhà xuất bản từ chối cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi – một cuốn tiểu thuyết mà công lao duy nhất của nó là nỗ lực tìm kiếm một hình thức mới – đã làm nhụt đi cái khát vọng và niềm tự hào của tôi. Mà là những tình huống trong đời sống khi sự phân biệt giữa đàn bà và đàn ông quá trầm trọng trong một xã hội với các vai trò được xác định theo giới tính, nơi mà các biện pháp ngừa thai bị cấm và phá thai là một tội ác. Lập gia đình và có hai con, dạy học và chăm lo công việc nội trợ, mỗi ngày tôi càng xa dần chuyện viết lách và lời hứa trả thù cho cộng đồng của mình. Tôi không thể đọc câu chuyện ngụ ngôn “Trước pháp luật” (Before the Law) trong tác phẩm Vụ án (The Trial) của Kafka mà không nhìn thấy số phận của chính mình: chết mà chưa từng bước vào cánh cổng dành riêng cho mình, chưa viết được cuốn sách mà chỉ tôi mới có thể viết.

Nhưng đó là không kể đến hoàn cảnh riêng tư và tình huống lịch sử. Cái chết của cha tôi (ông qua đời ba ngày sau khi tôi về thăm nhà trong một kỳ nghỉ), việc dạy học cho những học trò xuất thân từ tầng lớp lao động giống như bản thân tôi, các phong trào biểu tình ở khắp mọi nơi trên thế giới: tất cả những yếu tố này, qua những con đường không định trước được và tiếp cận rất gần với gốc gác của tôi, đã đưa tôi trở lại với “đám đông” của mình, và làm cho cái khát vọng viết của tôi thêm phần bí mật và cấp bách. Không còn ảo tưởng ‘viết khơi khơi’ của những năm hai mươi tuổi; bây giờ vấn đề là đi sâu vô những điều xấu xa trong ký ức bị kìm nén, và đưa ra ánh sáng cái cách cộng đồng của tôi đã sống như thế nào. Viết để hiểu những lý do, cả bên trong và bên ngoài bản thân tôi, đã khiến tôi xa rời gốc gác của mình.

Trong việc viết lách, không có lựa chọn nào là hiển nhiên. Nhưng đối với những tác giả là di dân, không còn nói tiếng gốc địa phương, và những người đã chối bỏ giai cấp của mình, không còn có chung ngôn ngữ nữa, họ suy nghĩ và biểu lộ bằng những từ ngữ khác, họ phải đối mặt với nhiều chướng ngại khác. Một tình trạng khó xử. Họ thực sự cảm thấy khó khăn, thậm chí là không thể viết được – bằng ngôn ngữ họ đã học, ngôn ngữ phổ biến, ngôn ngữ mà họ đã thông thạo và ngưỡng mộ trong các tác phẩm văn chương – về mọi thứ liên quan đến gốc gác của họ, cái thế giới đầu tiên được tạo thành từ những cảm giác và từ ngữ mô tả cuộc sống hàng ngày, việc làm, địa vị trong xã hội. Một mặt là ngôn ngữ mà họ học để đặt tên cho mọi thứ, với sự tàn bạo và im lặng của nó, ví dụ như cuộc nói chuyện thân mật giữa người mẹ và đứa con trai trong tác phẩm rất hay của Albert Camus, Giữa Có và Không (Between Yes and No). Mặt khác là kiểu mẫu của những tác phẩm mà họ ngưỡng mộ và tiếp thu đã mở ra cái thế giới đầu tiên ấy, đã khiến họ cảm thấy mắc nợ về sự thăng tiến của bản thân, và đôi khi còn được coi như quê hương thật sự. Theo tôi những người viết như vầy là Flaubert, Proust, Virginia Woolf. Khi tôi quay trở lại viết, không ai trong số những tác giả này giúp đỡ được gì cho tôi. Tôi đã phải đoạn tuyệt với việc ‘viết hay’ và những câu văn đẹp – là kiểu mà tôi đã dạy học sinh của mình viết – để giải quyết tận gốc, bộc lộ và hiểu được rạn nứt trong người tôi. Điều đến với tôi một cách tự động là cái huyên náo của một ngôn ngữ truyền đạt giận dữ và nhạo báng, đến nỗi thô lỗ; một ngôn ngữ thái quá, nổi loạn, thường được những người bị sỉ nhục và bị xúc phạm dùng như là phản ứng duy nhất của họ khi nhớ lại sự khinh miệt của người khác, sự xấu hổ, và nỗi hổ thẹn vì đã cảm thấy xấu hổ.

Cũng rất nhanh chóng, dường như hiển nhiên – đến mức tôi không thể tưởng tượng ra cách nào khác để bắt đầu – để hạ bút viết câu chuyện về rạn nứt của đời sống xã hội trong tình huống tôi là một sinh viên, một tình huống gây phẫn nộ trong tôi, khi mà chính quyền Pháp vẫn còn lên án phụ nữ, những người tìm cách phá thai lén lút dưới bàn tay của những kẻ phá thai lậu. Và tôi muốn kể ra tất cả mọi chuyện đã xảy ra trong thân thể thiếu nữ của tôi; như khám phá hoan lạc, và kinh nguyệt. Và vì vậy, không lường trước được vào thời điểm đó, cuốn sách đầu tiên xuất bản năm 1974, đã vạch ra lĩnh vực mà tôi sẽ viết, một lĩnh vực cả xã hội lẫn nữ quyền. Kể từ lúc đó, trả thù cho cộng đồng của tôi và trả thù cho phái tính của tôi trở thành một.

Làm sao người ta có thể suy ngẫm về cuộc đời mà không suy ngẫm về sáng tác? Không thắc mắc liệu sáng tác củng cố hay phá vỡ những biểu tượng đã được chấp nhận, đã được nội tâm hóa của con người và sự vật? Với tính chất quá khích và nhạo báng của nó, chẳng phải văn chương nổi dậy đã phản ánh thái độ của những người bị lấn át hay sao? Khi người đọc được đặc quyền về mặt văn hóa, họ sẽ duy trì quan điểm trịch thượng và hạ cố đối với nhân vật trong sách giống như ngoài đời thực. Do đó, ban đầu, để tránh né kiểu nhìn thật khó mà chịu đựng này – khi hướng vào cha tôi, người mà tôi sắp viết về – và, khiến tôi cảm thấy mình là kẻ phản bội, thì bắt đầu từ tác phẩm thứ tư, tôi đã chọn một kiểu viết trung lập, khách quan, ‘bằng phẳng’ theo cái nghĩa là không chứa ẩn dụ cũng như những dấu hiệu của cảm xúc. Bạo lực không còn trưng bày nữa; nó đến từ chính sự thật chứ không phải từ văn chương. Cho đến bây giờ, việc tìm kiếm những từ chứa đựng cả thực tế lẫn cảm giác do thực tế mang lại đã trở thành, và vẫn còn là, mối quan tâm của tôi khi viết, bất kể về chủ đề gì.

Tiếp tục nói ‘tôi’ là điều cần thiết đối với tôi. Trong văn chương, ngôi thứ nhất – ngôi thứ mà qua đó chúng ta tồn tại, trong hầu hết các ngôn ngữ, từ lúc biết nói cho đến khi chết – thường được coi là tự cao tự đại nếu được dùng để đề cập đến tác giả hơn là dùng dưới dạng hư cấu. Điều đáng nhớ là ‘tôi’, cho đến lúc này vẫn là đặc quyền của giới quý tộc kể lại những chiến công trong các hồi ký, ở Pháp là một cuộc chinh phục dân chủ của thế kỷ 18, sự khẳng định về quyền bình đẳng của các cá nhân và quyền trở thành chủ đề trong câu chuyện của họ, như Jean-Jacques Rousseau đã tuyên bố trong phần mở đầu của cuốn Tự thú (Confessions): ‘Và đừng để ai phản đối rằng, là một người của đám đông, tôi không có lời nói nào đáng được người đọc quan tâm. […] Dù tôi có thể đã sống không chút tiếng tăm gì, nhưng nếu tôi suy nghĩ nhiều hơn và hay hơn các ông Vua, thì câu chuyện về linh hồn tôi sẽ thú vị hơn là của họ.’

Không phải niềm tự hào bình thường này đã thúc đẩy tôi (mặc dù, đã nói rằng…), nhưng mà là ao ước được dùng ‘tôi’ – một hình thức vừa nam tính vừa nữ tính – như một công cụ khám phá để ghi lại những cảm giác: những cảm giác mà ký ức đã chôn vùi, những cảm giác mà thế giới xung quanh chúng ta không ngừng chia xẻ, khắp nơi và mọi lúc. Điều kiện phải có của cảm giác đối với tôi trở thành vừa kim chỉ nam vừa là bảo đảm cho tính xác thực của công trình nghiên cứu của tôi. Nhưng để làm gì? Không phải để kể chuyện đời tôi hay giải thoát bản thân tôi khỏi những thầm kín nhưng mà để giải mã một tình huống sống, một sự kiện, một mối quan hệ lãng mạn, và qua đó tiết lộ điều gì đó mà chỉ có sáng tác mới có tạo ra và có thể chuyền vào ý thức và ký ức của nhiều người khác. Ai có thể nói rằng yêu thương, đau đớn và tang tóc, xấu hổ, không phải là phổ quát? Victor Hugo đã viết: ‘Không ai trong chúng ta có được vinh dự sống một cuộc đời chỉ riêng cho mình.’ Nhưng vì mọi trải nghiệm đời sống đều diễn ra dưới dạng cá nhân- ‘điều này đang xảy ra với tôi’ – người đọc chỉ có thể đọc giống như vậy nếu cái ‘tôi’ trong sách trở nên rõ ràng, theo một nghĩa nào đó, và cái ‘tôi’ của người đọc chiếm lĩnh nó. Nói một cách khác, nếu cái ‘tôi’ này vượt lên được giới hạn của một cá nhân.

Đây là cách tôi nhận thức lời cam kết của tôi với chuyện viết lách, không viết ‘cho’ một loại độc giả, mà viết ‘từ’ kinh nghiệm của tôi với tư cách là một người đàn bà và một người lưu lạc trong nội tâm; và từ ký ức càng ngày càng dài của tôi về những năm tháng tôi đã sống, và từ hiện tại, một nguồn cung cấp vô tận những hình ảnh và lời nói của nhiều người khác. Cam kết mà tôi nguyện bằng lời văn được hỗ trợ bởi niềm tin, điều đã trở thành chắc chắn, rằng một cuốn sách có thể góp phần thay đổi cuộc sống riêng tư, giúp phá vỡ nỗi cô đơn từ những kinh nghiệm chịu đựng và bị kiềm chế, đồng thời giúp con người hình dung lại chính mình. Đó là chính trị, khi điều không thể nói được bộc lộ ra ánh sáng.

Ngày nay, chúng ta thấy điều đó trong cuộc nổi dậy của những người phụ nữ, những người đã tìm ra ngôn từ để phá vỡ quyền lực của nam giới và những người đã nổi dậy, như ở Iran, chống lại hình thức cổ xưa nhất của quyền lực này. Tuy nhiên, viết ở một đất nước dân chủ, tôi tiếp tục thắc mắc về vị trí của phụ nữ trong lĩnh vực văn chương. Họ vẫn chưa đạt được tính cách chính đáng của người viết. Có những người đàn ông trên thế giới, bao gồm cả giới trí thức phương Tây, đối với họ đơn giản là những cuốn sách do phụ nữ viết không tồn tại; họ không bao giờ trích dẫn chúng. Việc Viện hàn lâm Thụy Điển công nhận tác phẩm của tôi là một dấu hiệu hy vọng cho tất cả các nhà văn nữ.

Khi làm sáng tỏ những điều không thể nói ra về xã hội, về những mối quan hệ quyền lực được nội tâm hoá liên quan đến giai cấp và/hay chủng tộc, và cả giới tính, những điều mà chỉ những ai có kinh nghiệm va chạm trực tiếp mới cảm nhận được, khả năng giải phóng không những của cá nhân mà cả tập thể hiện ra. Giải mã thế giới thực bằng cách tước bỏ tầm nhìn và giá trị mà ngôn ngữ/mọi ngôn ngữ chứa đựng cũng có nghĩa là làm đảo lộn trật tự đã được thiết lập, đảo lộn các thứ bậc trong đời sống.

Nhưng tôi không nhầm lẫn về tác động chính trị của sáng tác văn học, tùy thuộc vào sự tiếp nhận của người đọc, với các vai trò mà tôi cảm thấy thôi thúc phải đảm đương đối với các sự kiện, xung đột và ý tưởng. Tôi lớn lên trong thế hệ hậu chiến, sau Thế chiến thứ hai, khi các nhà văn và trí thức chọn cho họ một vị trí trong quan hệ với chính trị nước Pháp và tham gia vào các cuộc đấu tranh xã hội như một lẽ tất nhiên. Ngày nay, khó nói được là liệu mọi thứ có khác đi hay không nếu như họ đã không lên tiếng và hành động. Trong thế giới ngày nay, khi các nguồn thông tin đa dạng và hình ảnh vụt qua với tốc độ chóng mặt đã tạo ra một tâm thức dửng dưng, thì việc tập trung vào nghệ thuật cá nhân là một cám dỗ. Nhưng, trong khi đó, ở châu Âu, một hệ tư tưởng thoái lui và đóng cửa đang trên đà gia tăng, được che đậy dưới bạo lực của một cuộc chiến tranh đế quốc do nhà độc tài đứng đầu nước Nga gây ra, và cho đến nay hệ tư tưởng này đang dần giành được chỗ đứng ở các nước dân chủ. Được thành lập dựa trên việc loại trừ người ngoại quốc và di dân, việc bỏ rơi những người yếu kém về kinh tế, việc kiểm soát thân thể phụ nữ, hệ tư tưởng này đòi hỏi một trách nhiệm đề cao cảnh giác, cho tôi và cho tất cả những ai xem giá trị của con người luôn luôn bình đẳng ở mọi nơi mọi lúc.

Bằng việc trao tặng cho tôi danh hiệu văn học cao quý nhất, một ánh sáng rực rỡ chiếu rọi vào công việc sáng tác và nghiên cứu cá nhân vốn đã được thực hiện trong cô đơn và nghi ngại. Ánh sáng này không làm tôi hoa mắt. Tôi không coi chuyện nhận được giải thưởng Nobel là một chiến thắng cá nhân. Theo một nghĩa nào đó, không phải vì tự hào hay khiêm tốn, tôi coi đây là một chiến thắng tập thể. Tôi chia sẻ niềm tự hào về giải thưởng này – bằng cách này hay cách khác – với những người hy vọng sẽ có nhiều tự do hơn, bình đẳng hơn và phẩm giá cao hơn cho tất cả mọi người, bất kể giới tính, màu da và văn hóa; và với những người quan tâm đến các thế hệ tương lai, đến việc bảo vệ một Trái đất nơi một số ít người hám lợi đang làm cho cuộc sống ngày càng khó khăn hơn cho nhân loại.

Nếu nhìn lại lời hứa từ hồi thời hai mươi tuổi để trả thù cho cộng đồng của mình, tôi không thể nói là tôi đã thực hiện được chưa. Chính từ lời hứa này, và từ những tiền nhân của tôi, những người đàn ông và đàn bà siêng năng chăm chỉ, dày dạn với những công việc khiến họ phải chết sớm, mà tôi có đủ sức mạnh và sự giận dữ để nuôi khát khao và hoài bão dành cho họ một vị trí trong văn học, giữa tập hợp những tiếng nói mà ngay từ đầu đã đồng hành với tôi, cho tôi tiếp cận với những thế giới khác và những cách sống khác, bao gồm những phản kháng và mong muốn thay đổi – để khắc ghi tiếng nói của tôi với tư cách một người đàn bà và một kẻ phản giai cấp ở một nơi vẫn còn là một không gian giải phóng, văn học.

Nguyễn Sĩ Hạnh dịch từ bản dịch tiếng Anh của Alison L. Strayer

Annie Ernaux – Nobel Prize lecture. NobelPrize.org. Nobel Prize Outreach AB 2022. Mon. 19 Dec 2022. https://www.nobelprize.org/prizes/literature/2022/ernaux/lecture/

 

Trích dẫn

Arthur Rimbaud, A Season in Hell ; Une saison en enfer & The Drunken Boat ; Le bateau ivre. Translated from the French by Louise Varèse ; preface by Patti Smith. New York : New Directions, 2011

Trích dẫn từ những tác phẩm dưới đây được Alison L. Strayer dịch qua Anh ngữ:

Jean-Jacques Rousseau, Œuvres complètes I. Les confessions ; Autres textes autobiographiques. Édition publiée sous la direction de Bernard Gagnebin et Marcel Raymond. Paris : Gallimard, 1959

Victor Hugo, Œuvres complètes. Poésie V, Les Contemplations (Préface des Contemplations). Paris : Hetzel-Quantin, 1882

 

0 Bình luận

Bình Luận