Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian (trích)
Ocean Vuong sinh năm 1988 ở Việt Nam và hai năm sau cùng gia đình di cư đến Hartfort, Connecticut. Ở tuổi 11, anh trở thành người đầu tiên trong gia đình biết đọc và viết. Tuyển tập thơ tên Trời đêm những vết thương xuyên thấu (Night sky with exit wounds) phát hành năm 2016 đã đem về cho anh giải T. S. Eliot. Năm 2019, Vuong cho ra mắt tiểu thuyết đầu tay, Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian (On earth we’re briefly gorgeous). Cuốn tiểu thuyết đậm chất tự truyện này được kể dưới hình thức một lá thư do nhân vật chính, cũng là một nhà thơ thành danh, viết cho người mẹ không biết đọc của mình. Trong đó, anh kể lại cuộc sống của một cậu bé châu Á trên đất Mỹ, những cảm xúc cũng như trải nghiệm tình dục đầu đời của một thiếu niên đồng tính, các mẩu hồi ức đầy ám ảnh về chiến tranh Việt Nam truyền lại từ bà ngoại và mẹ, xen lẫn là những suy ngẫm về vẻ đẹp của cuộc đời.
Tiểu thuyết đã được Nhã Nam mua bản quyền xuất bản.
– Khánh Nguyên
Rồi con cho má biết sự thật.
Hôm đó là một ngày Chủ nhật xám xịt. Cả sáng trời cứ muốn mưa lớn. Kiểu ngày mà con đã hy vọng là mối liên kết giữa hai con người có thể được quyết định dễ dàng – khi thời tiết ảm đạm tới mức hai chúng ta, má và con, sẽ nhìn nhau nhẹ nhõm, thấy một gương mặt thân quen đã trở nên lung linh hơn là ta vẫn nhớ trên nền ánh ngày lạnh lẽo.
Trong quán Dunkin’ Donuts sáng trưng, giữa má con mình là hai cốc cà phê đen bốc khói. Má đăm đăm nhìn ra cửa sổ. Mưa quất xuống đường lên những xe cộ đi về từ buổi lễ nhà thờ trên đường Main. “Dạo này dân tình thích đi mấy cái SUV kia dữ.” Má nhận xét đoàn xe đi qua quầy bán mang đi. “Ai cũng muốn ngồi càng cao càng tốt.” Má nhịp nhịp tay trên mặt bàn.
“Má lấy đường không?” con hỏi. “Hay lấy kem, à, hay má ăn donut không? Ủa mà, má thích bánh sừng trâu…”
“Con muốn nói gì thì nói đi Chó Con.” Giọng má lặng lẽ, nghèn nghẹn. Hơi nóng từ cốc cà phê làm vẻ mặt má thay đổi luôn.
“Con không thích con gái.”
Con không muốn xài cái chữ tiếng Việt pê đê – mượn từ tiếng Pháp pédé, viết tắt của pédéraste. Trước thời Pháp chiếm đóng, người Việt Nam mình không có chữ chỉ những cơ thể khác biệt – vì họ bị coi như mọi cơ thể, có thịt da và chung nguồn cội – và con không muốn giới thiệu phần này của con người con bằng cái tính ngữ dành cho tội phạm.
Má chớp mắt mấy cái.
“Con không thích con gái,” má lặp lại, lơ đãng gật đầu. Con có thể thấy những chữ đó đi qua má, ấn má sâu vào ghế. “Vậy chớ con thích gì? Con mới mười bảy tuổi đầu. Con không thích gì hết. Con không biết gì hết,” má nói, tay cào lên bàn.
“Con thích con trai,” con nói, cố giữ giọng bình tĩnh. Nhưng câu nói ngắc ngứ trong miệng. Cái ghế má ngồi cót két khi má chúi tới.
“Sô cô la! Con muốn sô cô la!” Một đám con nít mặc áo thun màu xanh ngọc thùng thình, vừa hái táo về – nhìn mấy túi giấy đựng đầy táo là biết, lao vào quán, tiếng rú rít hào hứng vang khắp quán.
“Con có thể đi, má à,” con đề nghị. “Nếu má không chấp nhận thì con có thể đi. Má sẽ không phải lo về con nữa và cũng không ai cần phải biết đâu… Má nói gì đi.” Trong cốc, bóng con lay động trên mặt nước đen sóng sánh. “Đi má.”
“Nói má nghe,” má nói đằng sau lòng bàn tay bụm lấy cằm, “giờ con sẽ bận đầm luôn phải không?”
“Má…”
“Tụi nó sẽ giết con,” má lắc đầu, “con biết mà.”
“Ai giết con?”
“Tụi nó giết mấy đứa bận đầm. Tin tức nói đầy. Con đâu biết con người ta thế nào. Con đâu biết tụi nó ra làm sao.”
“Con không có bận đầm đâu má. Con hứa. Nghe nè, trước giờ con có bận đầm đâu, ha? Giờ sao lại bận làm chi?”
Má nhìn vào hai cái hốc trên mặt con. “Con khỏi cần đi đâu hết. Có con với má thôi, Chó Con à. Má còn ai đâu.” Mắt má đỏ hoe.
Đám con nít đầu kia quán đang hát bài “Nông trang của Già MacDonald”, giọng tụi nó, niềm vui dễ có của tụi nó, sao mà xóc óc.
“Nói má,” má ngồi thẳng lên, vẻ lo âu trên mặt, “từ hồi nào vậy? Má đẻ ra một thằng con trai khỏe mạnh, bình thường mà. Cái đó má biết. Từ hồi nào?”
Hồi con sáu tuổi, học lớp một. Trường con học là nhà thờ phái Luther được cải tạo. Do khu nhà bếp sửa không bao giờ xong, nên bữa trưa luôn được phát ở phòng thể chất, vạch kẻ trên sân bóng rổ uốn cong dưới chân trong khi tụi con ngồi bên những bàn ăn tạm bợ: bàn học kê thành từng cụm. Mỗi ngày cấp dưỡng sẽ đẩy vào những thùng lớn đựng các suất ăn đông lạnh chỉ gồm một món: một cục nâu nâu đo đỏ trong một cái khay vuông trắng bọc màng bọc thực phẩm. Tụi con xếp hàng sau bốn lò vi sóng kêu o o suốt bữa trưa, chờ từng phần ăn một được hâm nóng rồi, keng một tiếng, bị đẩy ra, phồng rộp lên, bốc khói, vào đôi tay đợi sẵn của tụi con.
Con cầm cái khay cháo vuông ngồi xuống bên một cậu bé mặc áo thun có cổ vàng với mái tóc đen chải ngược ra sau. Cậu tên Gramoz và, về sau con được biết, gia đình cậu từ Albania đến Hartford sau khi Liên Xô sụp đổ. Nhưng hôm đó mấy chuyện đó chẳng quan trọng gì. Quan trọng là cậu không có cái khay vuông trắng đựng thứ cháo xám, mà lại có một túi đồ ăn trưa màu ngọc lam trơn láng có khóa dán, và cậu lấy ra một khay đựng mấy cái pizza mini, mỗi cái nhìn như một món trang sức quá khổ.
“Ăn không?” cậu nói tự nhiên, cắn một miếng.
Con ngại không dám đụng vào. Gramoz thấy vậy liền cầm tay con, ngửa lên, rồi để vào một cái bánh. Bánh nặng hơn con tưởng. Và không hiểu sao vẫn còn ấm. Sau đó, mỗi giờ giải lao, con theo Gramoz đi bất cứ đâu. Dưới cậu hai nấc trên xà đu, sát gót chân cậu đang leo lên cầu tuột màu vàng uốn tròn, đôi Keds trắng cậu mang chớp lên mỗi bước.
Để trả ơn cậu bé đã cho con cái pizza mini đầu tiên trong đời, còn cách nào ngoài trở thành cái bóng của cậu?
Vấn đề là, lúc đó, tiếng Anh của con gần như còn là số không. Con không thể nói chuyện với cậu. Và dù có thì biết nói gì đây? Con đang theo cậu tới đâu? Tới nơi nào? Có lẽ thứ con tìm kiếm không phải là điểm đến, mà chỉ là sự tiếp tục. Ở gần Gramoz là được ở lại trong phạm vi cử chỉ tốt bụng duy nhất của cậu, là được đi ngược thời gian, trở lại giờ trưa đó, với cái pizza nặng trên tay.
Một ngày, trên cầu tuột, hai má đỏ lựng, Gramoz quay lại hét lên, “Đừng có theo tao nữa, đồ điên! Mày bị gì vậy hả?” Không phải lời nói mà là đôi mắt cậu, nheo lại như thể đang nhắm bắn, khiến con hiểu ra.
Như một cái bóng bị cắt rời khỏi nguồn sáng, con dừng lại trên đầu cầu tuột, nhìn mái tóc bóng mượt chải gọn của cậu nhỏ dần xuôi đường ống trước khi biến vào giữa những tiếng cười trẻ con, mất hút.
Khi con tưởng thế là xong rồi, thế là con đã trút xong những thứ trong lòng rồi, thì má đẩy cốc cà phê qua bên, nói, “Giờ thì má có cái này muốn nói với con.”
Hàm con nghiến lại. Đây có phải là trao đổi qua lại đâu, có phải là một vụ giao dịch đâu. Con gật đầu, giả là mình rất muốn nghe, khi má nói.
“Con có một đứa anh.” Má vén tóc khỏi đôi mắt không chớp. “Nhưng nó chết rồi.”
Đám trẻ vẫn còn đó nhưng con không nghe thấy những tiếng nói lí nhí, chóng tàn ấy nữa.
Con nhận ra má con mình đang trao đổi sự thật, tức là đang làm tổn thương nhau.
“Nhìn má đây. Con phải biết chuyện này.” Má nghiêm mặt. Môi mím lại thành một đường tím.
Má kể tiếp. Má từng có một đứa con trai đang lớn lên trong mình, một đứa con trai má đã đặt tên, một cái tên má không chịu nói. Đứa con trai trong bụng má bắt đầu nhúc nhích, tay chân nó khuôn theo vòng bụng má. Và má hát và nói chuyện với nó, như sau này với con, kể cho nó nghe những bí mật ngay cả chồng má cũng không biết. Má khi đó mười bảy tuổi và còn ở Việt Nam, bằng tuổi con lúc này đang ngồi với má.
Hai bàn tay má giờ cụp lại giống như ống nhòm, như thể quá khứ là thứ cần phải săn lùng cho ra. Bàn bên dưới má ướt. Má lấy khăn giấy lau, rồi nói tiếp, về năm 1986, năm có anh con, con trai má. Về chuyện, bầu đến tháng thứ tư, khi khuôn mặt của đứa bé thành hình, thì chồng má, ba con, bị bên nội ép, bắt má phá thai.
“Không có gì ăn,” má nói tiếp, vẫn bụm cằm phía trên bàn. Một người cần tới nhà vệ sinh xin phép đi qua. Má nhích qua mà không nhìn lên. “Người ta phải độn mùn cưa vô cơm. Có chuột để mà ăn là mừng.”
Má chọn từng chữ cẩn thận, như thể câu chuyện là đốm lửa má nâng niu trước gió. Đám trẻ cuối cùng cũng đi – chỉ còn hai cụ ông cụ bà ngồi lại, hai nhúm tóc trắng lấp ló sau hai tờ báo.
“Không như anh con,” má nói, “con chỉ sinh ra khi ba má biết chắc là con sống được.”
Mấy tuần sau khi Gramoz cho con cái pizza mini đó, má mua con chiếc xe đạp đầu tiên: một chiếc Schwinn hồng chói có hai bánh phụ cùng với túm đuôi nheo màu trắng ở hai đầu tay cầm kêu loạt xoạt, như những chùm bông cổ động nhỏ xíu, cả khi con đạp với vận tốc đi bộ, mà thường là thế. Nó có màu hồng vì màu hồng là rẻ nhất trong cửa hàng.
Chiều hôm đó, khi đang đạp trong bãi đậu xe chung cư, chiếc xe bị chận lại. Con nhìn xuống thì thấy một đôi tay đang túm lấy ghi đông. Tay một thằng nhóc, chừng mười tuổi, cái mặt mập ú mướt mồ hôi chình ình trên một thân hình núc thịt. Trước khi con kịp hiểu sự tình, chiếc xe bị giật ngược và con té đập mông xuống bê tông. Má đã chạy lên lầu ngó ngoại. Bước ra từ sau lưng thằng kia là một thằng nhỏ hơn mặt như mặt chồn. Thằng mặt chồn la lên, nước miếng văng trước mặt nó óng ánh cầu vồng dưới ánh nắng xiên khoai.
Thằng mập lôi ra cái móc chìa khóa rồi bắt đầu cạo lớp sơn trên xe đạp con. Sơn tróc ra dễ dàng thành những đám lấp lánh màu hồng. Con ngồi đó, nhìn những hạt bụi hồng lả tả trên nền bê tông trong lúc thằng kia cào chìa khóa lên thân xe. Con muốn la khóc nhưng vẫn chưa biết khóc tiếng Anh. Nên con chẳng làm gì.
Đó là ngày con biết được rằng màu có thể nguy hiểm thế nào. Rằng một thằng nhóc có thể bị đánh văng khỏi cái màu đó và buộc phải suy ngẫm về sự xâm phạm của mình. Ngay cả khi màu sắc chẳng là gì ngoài sự thể hiện của ánh sáng, thì cái chẳng là gì đó cũng có luật riêng, và một thằng con trai đi xe đạp hồng cần được dạy, trên hết, về luật của trọng lực.
Đêm đó, trong căn bếp dưới ánh bóng đèn tròn không chao, con quỳ bên má nhìn má quệt từng vệt dài, với sự chính xác nhà nghề, sơn đè lên những đường thẹo màu xanh côban trên thân xe, chai sơn móng màu hồng má cầm vững vàng trong tay.
“Ở bệnh viện, người ta đưa má hũ thuốc. Má uống một tháng. Để cho chắc. Sau một tháng, đáng lẽ má phải cho ra nó – anh con.”
Con muốn về, muốn nói má thôi. Nhưng cái giá của việc thú nhận, con đã học được, là mình sẽ có một câu trả lời.
Sau một tháng uống thuốc, khi anh con đáng lẽ phải ra rồi, thì má thấy đau xé trong bụng. Người ta mau mau đưa má vô bệnh viện, lần này vào khu cấp cứu. “Má thấy anh con đạp trong lúc người ta đẩy má qua những căn phòng xám ngoét với tường bong tróc. Bệnh viện vẫn còn mùi khói và xăng sau cuộc chiến.”
Chỉ tiêm có Novocain giữa hai đùi má, các y tá đưa vào một thứ dụng cụ dài bằng kim loại và cứ thế “nạo con của má ra khỏi má, như người ta nạo hột đu đủ”.
Chính hình ảnh đó, cái sự tầm thường thực tế của nó, việc gọt trái cây mà con đã thấy má làm cả ngàn lần, cái muỗng trượt theo phần lòng màu cam như màu thịt của trái đu đủ, từng đám hột đen dính nhau rớt xuống bồn rửa thép, chính điều đó khiến con chịu không nổi. Con trùm cái nón áo len trắng qua đầu.
“Má thấy nó, Chó Con à. Má thấy thằng con má, chỉ thoáng thấy thôi. Một cục nâu nâu chuẩn bị vào thùng rác.”
Con vươn tay chạm vào mé cẳng tay má.
Ngay lúc đó, một bài hát của Justin Timberlake vang lên trên loa, những âm gió mong manh của anh ta luồn qua những tiếng gọi cà phê, bã cà phê đập đánh thịch xuống thùng rác cao su. Má nhìn con, rồi nhìn ra sau con.
Khi đôi mắt má quay về, má nói, “Lần đầu má nghe Chopin là ở Sài Gòn. Con biết không?” Tiếng Việt của má bỗng nhẹ bẫng, lâng lâng. “Má chắc chừng sáu bảy tuổi gì đó. Có ông đó ở bên kia đường, là một nghệ sĩ dương cầm học ở Paris. Ổng hay đem cây Steinway ra sân chơi vào buổi tối, để cửa mở. Con chó của ổng, ổng có con chó đen nhỏ, cao chừng này, hay nhổm lên rồi nhảy. Hai cái chân ốm nhách nhỏ xíu đi vòng vòng đạp tung bụi lên nhưng ông kia chả bao giờ để ý mà chỉ nhắm mắt chơi nhạc. Đó là quyền năng của ổng. Ổng không quan tâm tới phép màu tạo ra từ bàn tay mình. Má ngồi ngoài đường và xem cái mà khi đó má đã cho là phép màu: âm nhạc biến một con thú thành người. Má nhìn con chó lòi hết xương sườn ra đó nhảy theo nhạc Pháp và nghĩ điều gì cũng có thể xảy ra. Bất cứ điều gì.” Má đan tay vào nhau trên bàn, một cử chỉ vừa buồn bã lẫn bồn chồn. “Ngay cả khi ổng ngừng chơi, đi tới chỗ con chó đang lắc đuôi và đặt phần thưởng vào cái miệng há ra của nó, một lần nữa chứng tỏ chính cái đói, chỉ cái đói chứ không phải âm nhạc, đã cho con chó khả năng của con người, thì má vẫn tin. Rằng bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra.”
Cơn mưa ngoan ngoãn bắt đầu lớn lên lại. Con ngả người ra và nhìn mưa vỗ vào cửa sổ.
Đôi lần, khi bất cẩn, con nghĩ sống sót là việc đơn giản thôi: mình chỉ cần cứ thế tiến tới với những gì mình có, hoặc những gì còn lại từ những gì mình được từ đầu, cho tới khi có sự thay đổi – hay mình nhận ra, rốt cuộc, là mình có thể thay đổi mà không biến mất, rằng tất cả những gì mình phải làm là chờ tới khi cơn bão đi qua mình và mình thấy – phải – tên mình vẫn còn gắn vào một sinh vật đang sống.
Vài tháng trước khi má con mình nói chuyện với nhau trong Dunkin’ Donuts, một cậu bé mười bốn tuổi ở miền quê Việt Nam bị tạt axít vào mặt sau khi nhét thư tình vào hộc bàn một cậu bạn. Hè năm ngoái, một người quê Florida hai tám tuổi tên Omar Mateen bước vào hộp đêm ở Orlando, giương khẩu súng trường tự động và xả đạn. Bốn mươi chín người bị giết. Đó là một hộp đêm cho gay và những cậu bé ở đó, vì họ đúng là những cậu bé – những đứa con trai, những cậu thiếu niên – trông giống như con vậy: một thứ có màu sinh ra từ cùng một mẹ, lần mò trong bóng tối, dò dẫm lẫn nhau, kiếm tìm hạnh phúc.
Đôi lần, khi bất cẩn, con tin rằng vết thương cũng là nơi mà da gặp lại mình, bên này hỏi bên kia, mày đã ở đâu?
Chúng ta đã ở đâu, hả má?
Một nhau thai nặng trung bình khoảng hơn nửa ký. Một cơ quan chỉ dùng một lần, chuyển chất dinh dưỡng, hoóc-môn và chất thải qua lại giữa mẹ và thai nhi. Theo cách này, nhau thai là một dạng ngôn ngữ – có lẽ là thứ ngôn ngữ đầu tiên của con người, tiếng mẹ đẻ theo đúng nghĩa của nó. Vào tháng thứ tư hoặc năm, nhau thai của anh con đã hoàn thiện. Má và anh khi đó đã trò chuyện với nhau – những lời bằng máu.
“Nó về gặp má, con biết đó.”
Ngoài kia mưa đã tạnh. Bầu trời là một cái tô úp sạch trơn.
“Về gặp má?”
“Anh con, nó về gặp má trong mơ, chừng một tuần sau khi má rời viện. Nó ngồi ngoài bậc cửa. Má với nó ngó nhau một hồi, rồi nó chỉ quay người đi mất, đi xuôi hẻm. Má nghĩ nó chỉ muốn thấy mặt mũi của má, muốn thấy má nó trông như thế nào. Má chỉ mới là một đứa con gái. Trời ơi… trời, má mới mười bảy thôi.”
Ở đại học, đi lạc đề giữa một bài giảng về Othello, một vị giáo sư từng quả quyết rằng, theo ông ta thấy, người đồng tính nam đều yêu bản thân từ trong bản chất, và thói tự luyến công khai thậm chí còn có thể là dấu hiệu đồng tính luyến ái ngầm ở những người đàn ông vẫn chưa chấp nhận “xu hướng” của mình. Ngay giữa lúc con ngồi tức tối trên ghế, ý nghĩ đó cũng không thôi đào sâu vào con. Có thể nào, bao nhiêu năm trước, con đã đi theo Gramoz ngoài sân trường đơn giản là vì cậu là con trai, và do đó là ảnh phản chiếu của chính con?
Nhưng nếu là thế – thì sao lại không? Có khi ta soi gương không phải chỉ để tìm cái đẹp, dù có hão huyền đến đâu, mà để chắc chắn, dù đã rất rõ ràng, là ta vẫn còn đây. Rằng cơ thể bị săn lùng mà ta cư ngụ vẫn còn chưa bị hủy hoại, xóa bỏ. Thấy rằng mình vẫn là mình chính là một chốn ẩn náu mà những ai chưa từng bị từ chối thì không thể biết đến.
Con đọc được rằng trong suốt lịch sử cái đẹp bắt người ta sao chép lại. Chúng ta nhân thêm bất cứ thứ gì cho chúng ta khoái cảm thẩm mỹ, dù là cái bình, bức tranh, ly rượu, hay bài thơ. Chúng ta sản sinh thêm vật đó để giữ nó, đưa nó đi xa qua không gian và thời gian. Nhìn ngắm thứ cho ta khoái cảm – một bức tranh tường, một dãy núi màu đỏ đào, một cậu con trai, nốt ruồi trên quai hàm cậu – tự thân điều đó đã là sao chép: hình ảnh lưu lại trong mắt, nhân thêm và gìn giữ nó. Soi mình trong gương, con sao chép chính mình cho một tương lai con có thể không tồn tại. Và đúng vậy, bao nhiêu năm trước, cái con muốn ở Gramoz không phải là pizza mini, mà là sự sao chép. Vì món quà của cậu đã mở rộng con thành một thứ gì đó xứng đáng nhận được sự hào phóng và, do đó, được nhìn thấy. Chính sự nhân thêm đó là thứ con muốn gìn giữ, muốn quay trở lại.
Không phải ngẫu nhiên mà dấu phẩy nhìn giống một thai nhi đâu má – cái nét cong đánh dấu sự tiếp diễn ấy. Chúng ta đều từng nằm trong bụng mẹ, và bằng toàn bộ cái tôi cong lại và lặng lẽ khi đó, thốt lên rằng: thêm nữa, nữa, nữa. Con muốn quả quyết rằng việc ta đang sống đã là đủ đẹp đẽ đáng sao chép lại. Và thế thì sao? Cứ cho là con chỉ dùng được cuộc đời này vào một việc là nhân nó lên thêm nữa, thì sao?
“Má muốn ói,” má nói.
“Hả?”
“Má sắp ói.” Má bật dậy rồi chạy vào nhà vệ sinh.
“Trời đất, má nói thật hả,” con nói, đi theo má. Trong nhà vệ sinh, má quỳ bên cái bồn cầu duy nhất và ngay lập tức ộc ra. Dù tóc má đã búi lại, con vẫn quỳ xuống và lấy hai ngón tay vén ba bốn lọn tóc rủ xuống của má, một hành động mang tính gần như quy ước. “Má có sao không?” con nói với cái gáy má.
Má lại ọe, lưng má co thắt dưới bàn tay con. Chỉ tới khi thấy bồn tiểu bên đầu má vương vãi những sợi lông con mới nhận ra là nhà vệ sinh nam.
“Để con mua chai nước suối.” Con vỗ lưng má rồi đứng lên.
“Không,” má gọi theo, mặt đỏ bừng, “nước chanh. Kêu cho má nước chanh.”
Má con mình rời Dunkin’ Donuts nặng nề hơn vì những gì đã biết được về người kia. Nhưng má không biết rằng, thực ra, con đã mặc đầm – và sẽ làm vậy nữa. Rằng vài tuần trước, con đã mặc bộ đầm đỏ rượu nhảy trong một nhà kho thuốc lá cũ, trong khi bạn con, một chàng trai lêu nghêu với đôi mắt vằn đỏ, ngồi mơ màng xem. Con đã tận dụng cái đầm trong tủ đồ của má, cái đầm má mua nhân dịp sinh nhật ba lăm nhưng không bao giờ mặc. Con xoay tít trong lớp vải mỏng tang trong khi Trevor, chễm chệ trên một chồng lốp xe, vừa rít từng hơi cần sa vừa vỗ tay, xương đòn của bọn con sáng gắt dưới ánh hai cái điện thoại di động để dưới sàn nhà đầy xác thiêu thân. Trong nhà kho đó, lần đầu tiên trong nhiều tháng, bọn con không sợ ai cả – ngay cả chính mình. Má lái chiếc Toyota về nhà, con im lặng ngồi ghế bên cạnh. Có vẻ tối nay mưa sẽ quay lại và cả đêm thành phố sẽ được gột rửa, hàng cây dọc theo xa lộ rỏ nước xuống bóng đêm loang loáng. Lúc ăn tối, con sẽ kéo ghế ngồi xuống và, trong lúc lột nón áo khoác ra, một cọng cỏ ở nhà kho dính lại mấy tuần qua sẽ lòi ra từ trong mái tóc đen của con. Má sẽ với tay, phủi nó đi, rồi lắc đầu trong khi ngắm nhìn đứa con trai má đã quyết định giữ lại.
Ocean Vuong
Khánh Nguyên dịch
0 Bình luận