Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, sanh năm 1938 tại Gia-định.
Xong Trung-học, dạy học và viết văn, cả hai nghề đều tài tử.
Đã cộng tác với các tạp chí Sáng-tạo, Thế-kỷ Hai-mươi, Văn-nghệ…
Động viên khóa 17 Sĩ-quan Trừ-bị Thủ-đức. Hiện phục vụ tại Vùng IV Chiến-thuật.1964

Trong chu kỳ mười năm vừa qua, người  ta thấy xuất hiện trên sinh hoạt văn nghệ một vài bộ mặt mới mang sắc thái biệt lập với khuynh hướng văn chương tiền chiến trước đình chiến. Những nhà văn nhà thơ này đã tung sức làm một phản ứng, một đối lập, một kỷ lục mới về “nhẩy cao” đối với sự chi phối của văn chương Tiểu-thuyết Thứ-bẩy, Tự-lực Văn-đoàn, và khoác một phương thức mới của những nhà văn nghệ mới của Pháp như René Char, Louis Aragon, Jacques Prévert và nhất là Paul Éluard v.v… Công việc của những nhà thơ nhà văn này là kết quả của một chu trình biến chuyển của một nền văn nghệ đã tức hơi từ lâu và chờ dịp để biến dạng theo đúng với sự biến chuyển của hệ ý tưởng xã hội. Vì không có sự đồng tình, đồng quan điểm với khuynh hướng văn nghệ thời kỳ trước, nên, chúng tôi muốn nhắc lại, họ làm một kỷ lục về “nhẩy cao” càng khác xa quan niệm và ảnh hưởng văn chương cũ càng hay. Trong số những người ấy, trong những bài nói về các nhà thơ mới hiện thời, chúng tôi sẽ kể đến Tô Thùy Yên như một nhà thơ mới mang được ít nhiều cá tính đặc biệt của người làm thơ tự do.

Người ta được đọc những bài thơ đầu tiên của Tô Thùy Yên trên tạp chí Sáng-tạo, và người ta cũng thấy ở đó một sự diễn đạt khá sung túc của một người thơ có thể đi dường dài.

Tôi mọc trên địa cầu
nên các cành huyết quản
làm nhựa đời không thôi
làm trái tim chín đỏ

Tôi nằm há miệng chờ
trái tim muồi rụng xuống
cặp môi tôi phì nhiêu
đóa lời ca trổ ngát

Tôi dành nhìn đói luôn
thành ra tràn lá hết
giơ tay khô hàng đời
đến rã thành đất mới

Qua vài nét thơ như thế người đọc bấy giờ có thể có một cái nhìn có thiện cảm với tác giả, không phải vì nghệ thuật của Tô Thùy Yên đã phát nở cùng độ mà chính vì trong những vần thơ bề ngoài bình lặng dung dị  đã thấy có những sắc thái lạ. Người ta cũng nhận thấy qua cái bề ngoài phẳng lặng ít mấp mô ấy một bề trong với sự giằng co của các mâu thuẫn, một sự vận động mãnh liệt để đạt được một bề ngoài lặng lẽ. Nói cách khác cái bề ngoài êm ả ấy là một thế quân bình mới sau những cuộc sô sát bên trong. Người ta có thể gọi tên cái bề ngoài ấy bằng một danh từ làm-sẵn của triết học Tây-phương; l’absurde, sự phi-lý. Sự phi lý là một thực trạng khách quan theo quan niệm của người nhìn, tức là theo sự phán đoán chủ quan của một cá nhân thì sự vật bên ngoài là một thực trạng khách quan không hề bao gồm một chút quan điểm cá nhân nào của chủ thể phán đoán. Ví dụ như Nguyễn Du nói: người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, là một lối phán đoán chủ quan, đem sự phiền muộn của mình phủ lên cảnh vật bên ngoài. Nhưng nếu là một quan điểm và một cố gắng làm ngược lại sẽ đưa đến một cố gắng tách rời chủ quan và khách quan. Sự cố gắng tách rời càng làm xa được chừng nào thì con người càng cô đơn, càng cô đơn thì thấy chúng cần liên lạc với nhau, thấy chúng cần liên lạc với nhau thì khách thể càng trở lên phi lý tức là sự vật bên ngoài phi lý. Vì vậy quan niệm về phi lý hay triết học phi lý, philosophie de l’absurde, là một vận động chủ quan để tiến tới một nhận định khách quan, nhưng sự vận động ấy không thể nào thành công vì con người là một lý trí nhập thể, nên không thể nào ra khỏi điều kiện nhập thể cho nên cuộc vận động đó trong sự cố gắng hoạt động nửa chừng sẽ phát sinh ra một cái nhìn phi lý đối với sự vật.

cuộc đời như thế đấy
vẫn cặp mắt phô trần
không mang kính xậm
vẫn thứ mực thông dụng
không phải cường toan
tôi giật dành đổ máu với tôi
từng chữ một
những tên cai ngục
ngôn ngữ bất đồng
với thứ linh hồn quốc cấm
tù tội chung thân
giữa bốn bức tường không khí

Những câu thơ ấy rời rạc vì nó đã giải quyết xong một mâu thuẫn, như một con người rời rã và cô đơn sau một cuộc cố gắng kết hợp.

vẫn thứ mực thông dụng
không phải cường toan

“Mực” và “cường toan” là hai thực thể biệt lập, mực không phải là cường toan. Nhưng trước khi tới được một sự xác định là: mực không phải cường toan, đã có một cuộc vận động, vận động từ “là” tới “không là”. Nó là cường toan vì theo cách phán đoán chủ quan, nó giết hại người viết nó phá hủy ít nhiều khả năng của thần kinh nhưng sau tới được một nhận định khách quan mực không là cường toan. Cho nên giữa trạng thái ấy, giữa sự cố gắng tới khách quan nó phát sinh ra cái nhìn phi lý, đó là cái nhìn của Camus hơn của Sartre, dù sao Camus có vẻ một thi nhân viết văn hơn, trong khi Sartre là một triết gia viết tiểu thuyết để chuyên chở cái đạo của mình. Cái nhìn đó cũng là cái nhìn của một số những nhà văn nghệ mới.

Cũng từ đó người tay thấy một điều nằm trong khuynh hướng chung của văn đương thời là khuynh hướng bi quan, điều này tưởng như bề ngoài nhưng thực là bề sâu, vì những ý tưởng lạc quan nếu có cũng mọc rễ từ sự bi quan.

Niềm bí ẩn của tôi là đời sống
quả địa cầu nhầy nhụa bóng âm u
ánh mặt trời những tên đao phủ án
tôi mất ngủ đêm đêm mồ hôi mạn trán
khắp tâm thần vang động tiếng chân lê
tôi vùi mình xuống cô đơn như quả mìn nổ chậm
cuộc sống biến thành báo động triền miên
Tôi chạy cắm đầu trên sợi kinh hoàng
giăng qua đôi bờ vực lạnh hư vô.

Một tâm trạng như thế là tâm trạng của một kẻ khổ đau, là tâm sự của một gã thanh niên nào đó sinh ra và lớn lên trong thời đại này, hắn nói ngôn ngữ và làm hành vi của thời đại hắn sống hắn tự lột da và thu nhỏ lại, hắn là một trong những thanh niên đang sống bây giờ hắn có thể có một vết thương nào đó ở trong người như do hoàn cảnh xã hội và chính trị mang lại, hắn có thể liếm vết thương đó như con thú rằng, hắn có thể càng liếm càng thấy đau, và hắn có thể chạy ra phố, chạy lên núi cao, chạy ra biển cả.

Tôi chạy cắm đầu trên sợi thần kinh
Giăng qua đôi bờ vực lạnh hư vô.

Một tâm trạng kinh hoàng giữa một cuộc sống kinh hoàng sẽ phải đưa tới một lối thoát, hoặc hắn sẽ tự sát, tự sát để giải quyết phi lý hoặc tìm lại được một thế quân bình ở mức độ tâm trạng khác. Trường hợp thứ nhất là đề tài mà Tô Thùy Yên muốn dẫn giải trong một truyện ngắn có luận đề “Niềm bí ẩn trong cái chết của một người thanh niên”.

Kiên là một thanh niên độc thân, một tư chức ở và ăn ở nhà trọ. Kiên có gia đình nhưng không chịu được gia đình nên bỏ lên tỉnh. Kiên đã đi làm tại nhiều nơi, nhưng nơi nào làm được ít lâu hắn cũng chán và lại xin thôi việc. Kiên được cô gái con bà chủ nhà trọ thầm yêu thương. Hắn cảm thấy cuộc đời không đáng sống, vì hắn không thích gì, tiền và tình yêu. Hắn có ý định tự sát và hắn thi hành ý định ấy vào một buổi chiều. Tối hôm trước hắn trở về nhà trọ được cô gái con bà chủ nhà săn sóc trìu mến và tỏ tình, nhưng hắn không đáp lại. Sau đó hắn viết thư để lại cho cô gái tỏ lời cám ơn và an ủi, hắn cũng tặng luôn cho cô gái tấm vé số trúng độc đắc một triệu đồng mở ngày hôm trước. Hôm sau, khi vớt xác hắn trên sông, một tin nhắn trên báo chấm dứt hẳn cuộc đời của một người, độc giả không biết gì thêm về hắn ngoài những giấy tờ hộ tịch và tin hắn tự trầm dưới lòng sông.

Cuộc đời toàn thể dưới cái nhìn của Tô Thùy Yên là phi lý, và ông muốn dùng sự tự sát (le suicide) để giải quyết sự phi lý trong quan niệm riêng. Kiên là một thanh niên sống không mục đích, không ham thích. Làm việc ở một nơi được ít lâu, chán, bỏ đi, phi lý; được tình yêu của cô gái, không đáp lại, phi lý; trúng số độc đắc, không thèm giữ, phi lý; vậy sự phi lý ấy đưa tới cái chết, sự tự sát ở đây là một đam mê sau cùng trong khi những điều ham muốn ở đời không làm hắn mong muốn nữa

Trong Le Mythe de Sisyphe, Albert Camus đã viết lên trang đầu: chỉ có một vấn đề triết học thật sự đứng đắn, đó là sự tự sát. Vấn đề tự sát là vấn đề được nêu trong ý thức đối với quan niệm phi lý.

Nếu không dùng tự sát để giải quyết phi lý thì phải có một con đường khác hơn, con đường khác không là một đường lối chọn lựa nhưng có thể là một sự biến thái của tình trạng trên, ví dụ như sự chấp nhận. Sự chấp nhận khổ đau làm hắn có thể xác định:

Tôi sống để quên để sống,

và như vậy sự đau khổ là cần thiết vì:

thiếu đau khổ người ta thành múa rối
và cuộc đời một guồng máy vô công.

Sự đau khổ luôn luôn có sẵn và hiện diện trong đời sống cá nhân và cộng đồng. Thái độ thường là lẩn tránh nhưng trong trường hợp nào đó người ta không thể trốn tránh được, người ta phải đối diện với khổ đau:

Buộc phiến tâm hồn vào cổ cứng
tôi gieo mình xuống đáy đau thương
ẩn dật làm thinh như thủy quái
khăng khăng ôm giữ khối u tình.

Như thế sự phi lý được giải quyết trên một mực độ quân bình khác. Từ đó người ta thấy Tô Thùy Yên đi vào những tình cảm nhẹ nhàng hơn:

Ôi nếu được dừng chân tôi sẽ dựng lều nghỉ dưỡng già trong tuổi nhỏ…

… Tôi đến đặt dưới chân tượng cao vòi vọi bóng ấp cả đời tôi một đóa lời ca ngợi tình yêu kết bằng những cánh hoa héo cũ.

Những cánh hoa héo cũ là những cố gắng vô ích đã dẫn Tô Thùy Yên vào thế giới “quả địa cầu nhầy nhụa bóng âm u” với “ánh mặt trời những tên đao phủ án”. Ánh sáng của tình yêu đã chiếu vào vùng tăm tối ấy:

Suốt con đường đến nhà em anh bước khoan thai

Không ngó xuống kẻ thù khi tới nơi anh là kẻ vô địch trên đầu rực rỡ hào quang chỉ mình em ngó thấy

Mạch gió phập phồng nhưng cánh tay cành cây rực hồng ánh sáng, em có thấy tình yêu làm xúc động cả thiên nhiên.

Tô Thùy Yên là một nhà thơ thời đại, vì sự cố gắng của ông trong việc diễn tả là mong tập trung được hết những sao xuyến bị đặt trong một hoàn cảnh mà cái chết và sự khổ hạnh luôn luôn theo rõi, thời đại mà tất cả những khu vực ước mơ của tâm hồn như tan rã cả. Và để lộ nét mặt thật của tàn phá của kinh hoàng của thất vọng lẫn lộn. Tô Thùy Yên như muốn đẩy sự đau đớn ấy xuống thấp để tìm ra một lối thoát, hay một thái độ khẳng khái hơn đối với đời sống. Thơ Tô Thùy Yên dung dị dễ yêu vì trong sự diễn tả những điều tối tăm, ông cũng cố gắng nhìn vào cuộc đời với nhiều nhiều mầu sắc.

   

Nguyễn Quang Hiện

(Tập san VĂN)

Nguồn: http://www.gio-o.com/Chung/NguyenQuangHienToThuyYen.htm

 

0 Bình luận

Bình Luận