I.

Hình như do cụ Vương Hồng Sển mà chúng tôi đã trải qua nửa ngày với nhau tại Phụng Sơn Tự, ngôi chùa cổ khoảng hai trăm năm, ngay tại cuối đường Trần Quốc Toản, trong Chợ Lớn. Đâu như năm 1970.

Có mặt hôm đó, từ sáng tới chiều, ngoài cụ Vương, là các anh Nguyễn Vỹ, Vũ Hoàng Chương, và một hai người nữa lớp tuổi tôi, lớp tuổi mà nếu không sinh hoạt với thơ văn, tôi đã không thể gọi những người đó bằng anh, xưng tôi, như tôi đã gọi. Cụ Vương, anh Nguyễn, anh Vũ, nay đã không còn. Cái còn, trong nhí nhớ mờ mịt nổi trôi, là một ngày ngược về Lịch Sử, ngửa cổ nhìn những tàng cổ thụ bao la cao vút, thân mộc sần sùi nứt nẻ, lắng tai nghe một cánh Phượng Hoàng đáp xuống nóc chùa, và giọng tâm sự của anh Vũ Hoàng Chương.

Cụ Vương chỉ mặt nước sau chùa, khuất lấp dưới những lùm cây, mặt nước biến Phụng Sơn Tự thành một hòn đảo đối với khoảnh đất phía bên kia, nói: 

“Dáng chừng là cái chỗ đó mà Nguyễn Ánh lội qua chớ còn chỗ nào cà?”

Cụ kể chúng tôi nghe bước đường bôn tẩu của người sau này trở thành Thái tổ nhà Nguyễn. Vua Gia Long. Ông ta chạy qua ngôi chùa này, vượt con lạch kia, rồi chạy tuốt luốt xuống miền lục tỉnh.

“Hồi đó chùa chưa có tên là Phụng Sơn Tự. Cũng chưa lớn như bây giờ. Những người nhiều chuyện thì nói rằng một hôm có con chim Phượng Hoàng nghỉ cánh đáp xuống nóc chùa, nên chùa mới có tên là Phụng Sơn Tự. Phụng là Phượng. Sơn Tự là ngôichùa trên đỉnh đồi này,” cụ Vương nói. “Nhưng mà theo tôi, Hoàng đế là con Phụng đó. Người ta đổi tên chùa là Phụng Sơn Tự để ghi nhớ rằng Vua Gia Long đã từng đặt chân qua đây, trên đường bôn tẩu.” 

Ngửa cổ nghe tiếng chim lảnh lót, trên cao là những tàng cây mênh mông. Những thân cây cao vút, thẳng băng. Chùa cất trên một đồi đất cao hơn mặt đường, tuy không cao lắm, để được gọi là Sơn. Ngay lúc đến chùa, tôi cứ lấy làm lạ lùng, là mình sống ngay bên một thắng cảnh lịch sử, thường ngồi xe qua trên mặt lộ kia, mà sao chẳng bao giờ nhận ra cái khác thường của nó. Nhưng thật sự nó có khác thường không? Lịch sử nào có gì khác với cuộc sống thường, phong cảnh thường, ngoài một  khoảnh khắc làm biến đổi thời thế, đảo ngược vai trò, và đôi khi thêm một tí lưu huyết, lụy tình?

Sự việc Nguyễn Ánh và đám tùy tùng tất tưởi chạy qua đây có khác thường chăng? Hẳn cũng phải có. Nếu không, làm sao ngôi chùa này được đánh giá là một cổ tích thắng cảnh, để được hưởng tiền tu bổ hàng năm của Quĩ Bảo Tồn Văn Hóa do Liên Hiệp Quốc tài trợ?

Chúng tôi khi đi thăm chùa, không dự trù sẽ ở lại lâu. Thế mà mọi người đã chỉ ra về sau khoảng 5 tiếng đồng hồ. Phải chăng cũng vì sự khác thường của Lịch Sử  ấy?

Còn nhớ, đó là mùa hè. Còn nhó gió thổi hiu hiu và chim ca trên cao. Còn nhớ sự tĩnh mịch của buổi trưa. Còn nhớ hình như có một chiếc võng ai mắc giữa hai thân cây và anh Vũ Hoàng Chương đã ngả mình nằm xuống, chân đưa nhè nhẹ. Tôi ngồi gần anh, hay tựa vào gốc tùng cạnh đó. Đó là lần đầu anh nói chuyện văn chương với tôi, mà không nói về thơ. Chắc chắn không nói về thơ. Anh nói về Năm Xà Ích, một nhân vật đánh xe ngựa trên đường Ngã Tư Bảy Hiền, Khánh Hội của tôi.

“Này, làm sao mà cậu lại viết cái truyện Mã Lộ? Trần Phong Giao cho tôi cuốn sách, tôi đọc hai lần đấy.”

Cặp mắt anh hấp hay, dường như cái nắng lấp loáng xuyên qua những cành thông nhọn chiếu xuống có hơi sắc cạnh. Trời xanh trắng mây, mặt nước con lạch đôi khi bất ngờ làm tưởng một mảnh gương vỡ. Mặt sàn gỗ mà anh “nghiêng đôi vai, lướt đôi chân” thuở trai trẻ chắc cũng chỉ làm chóng mặt như thế này, khi ta tình cờ chạm mắt vào những cái kim tua tủa của ngàn thông trên đầu. Và anh giờ nhỏ thó, áo nâu sồng, chân đi dép, mỏng mảnh như một thầy tu ép xác, có khác chăng với thầy tu là ở chỗ anh rất hân hoan nhẹ nhàng.

Tôi muốn nói chuyện với anh về Thơ. Anh hỏi tôi về Chị Ba bán hoa và Năm Xích Long, cặp nhân tình người Nam trong truyện của tôi.

“Cái chuyện đó thật hả? Làm sao cậu viết giọng Nam kỳ như thế?”

Tôi nói với anh, tôi lớn lên tại Sài Gòn. Điều ấy hình như không giải nghĩa được gì, vì anh còn hỏi tới. Anh hỏi tôi chuyện vợ  con, Bắc hay Nam. Tôi nói tôi vừa lấy vợ, nhưng vốn có hai người yêu đầu đời khắng khít, một quê ở Gò Dầu Thượng, một ở Rạch Giá, mỗi khi có người giận dỗi bỏ về quê, tôi lại khăn gói nhắm Tây Ninh trực chỉ, còn không thì cũng hướng lòng về Núi Bà Đen, về Ba Động mà làm thơ, hay ca vài câu vọng cổ u sầu…

Mai về Ba Động cùng anh
“Bõ công cha mẹ sinh thành ra em”

Đó là hai câu tôi còn nhớ được, một nửa câu đã mượn của Ca Dao, trong bài Mai Về Ba Động đăng trên Văn Nghệ Tiền Phong từ năm 1958. Kỳ nữ Kim Cương thuộc bài thơ này của tôi, từng nhận tôi là chỗ đồng hương ngay từ khi bài thơ vừa đăng báo. Tuổi trẻ của tôi thiếu một Kinh Đô…Tôi không phải một chàng công tử Thiếu Lăng, ở chốn Tràng An xe ngựa dập dìu như Anh…

II.

Cung cách anh Chương khác hẳn cung cách những nhà văn nhà thơ tôi hằng giao tiếp, kể từ khi bước chân vào làng văn. Đúng hơn là làng báo. Anh nói năng nhỏ nhẹ, cẩn mật. Những câu anh nói khúc chiết, có những hàm ý rõ ràng. Đinh Hùng cởi mở hơn, và đuôi mắt dài hơn. Anh Chương nói, như tôi còn có thể hình dung được, dường như có bố cục, và có phong cảnh màu sắc âm điệu phía sau.

Trong làng văn, có ít ra là hai phái riêng rẽ, một phái viết văn, làm thơ thuần nhất, nếu có phải làm thêm một nghề nữa để sống, thì nghề đó thường là nghề dậy học, như anh Chương. Ở ngoài đường, cái dáng anh cũng cách biệt. Hình bóng tôi nhớ nhất nơi anh là lúc anh ngồi trên chiếc xe xích lô đạp tới trường Văn Lang, lúc trường này ở đâu mạn Nguyễn Cư Trinh, Cống Quỳnh gì đó, khoảng năm 1956. Anh ăn mặc chải chuốt trong bộ đồ lớn màu sáng, nếu không là màu trắng, cả áo lẫn quần đồng bộ, thì cũng là màu sữa nhạt. Cà vạt cũng nhạt, có đốm hoa. Mái tóc anh bóng, chải ngược trên đầu gọn ghẽ.

Phái thứ hai xô bồ, phần lớn là những nhà văn nhà thơ sống bằng nghề viết báo. Đây là phái trong đó có tôi. Lớp này ăn nói xuề xòa, cười đùa nghịch ngợm pha giọng phóng sự. Một cách nào đó, đây là phái bình dân, nhiều người biết rất nhiều nhưng hiểu không hiểu trọn, dùng chữ nghĩa bỏ lửng, và viết lách nhiều giai thoại hơn là điển tích. Có những người rất thâm trầm, hơn hẳn phái trước, song cũng có vô số lục bình trôi nổi táp vào mép bờ của một giòng cuồng lưu phăng phăng. Anh Nguyễn Vỹ phát biểu rằng những người làm thơ viết văn sống trong nghề báo loại này rất dễ bị đánh giá sai lầm, chính vì sự ô hợp ấy.

Vũ Hoàng Chương ở một thế giới khác; thế giới văn nhân “lỏng buông tay khấu”. Anh là nhân vật của thời tiền chiến còn sót lại trong một Sài Gòn tứ chiếng, một chàng trai Hà Nội hào hoa mang tâm thức mùa thu trong nắng lửa hải cảng Miền Nam. Một Lý Bạch tái sinh vào Giao Chỉ Bộ Nhật Nam Quận, chọn khói thay cho men. Thế nhưng anh Chương, nếu không làm Thơ, sẽ là người như thế nào? Con người ấy không thường. Đọc tiểu sử anh, thấy anh có tất cả, và xa rời tất cả, để chỉ cất bước ra đi vì một niềm riêng chỉ một người biết, ngay từ đầu tới chung cuộc, mãi mãi:

Mãi mãi chỉ riêng Nàng được biết
Từ đầu những chuyến Gã ra đi.
(Vũ Hoàng Chương, Lòng Đá). 

Gã chắc chắn là Anh, nhưng Nàng là ai thì chưa chắc ai đã biết. Và chưa chắc ai đã biết những chuyến ra đi ấy là những chuyến ra đi nào. Và hơn nữa, Nàng có phải là một con người? Hay Nàng là một Tượng Thần Vĩnh Cửu? Một Ý Niệm Một Khói Sương Một Bia Đá Một Hồn Ma?

III.

Thơ Mới, kể từ ngày xuất hiện tháng ba 1932, cho tới cuối thập niên ’70, không lúc nào vắng bóng Vũ Hoàng Chương. Không những chỉ ở Miền Nam, mà có xóa bỏ đi lằn ranh Bến Hải của 1954 để gồm làm một, một Thi Ca Việt Nam cho cả hai miền, ông vẫn là người duy nhất đã tung hoành trong vần điệu, thể cách, trường phái, cổ điển và hiện đại, Đông và Tây, sáng tác và dịch thuật trong suốt 40 năm. Duy nhất. 

Vũ Hoàng Chương, từ Thơ Say 1940 tới Chúng Ta Mất Hết Chỉ Còn Nhau 1974, đã đẩy Thi Ca từ Lãng mạn Đô thị thuộc địa “bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân” tới cõi Tần Sở chia lìa “nhớ quê dằng dặc ta cầu đó thôi.” Từ cõi hư ảo “gặp gỡ chừng như chuyện Liễu Trai” tới vùng không gian xẹt lửa của những tinh cầu vũ trụ “ta vượt ngàn năm đường ánh sáng, Tự ngoài Vô tận tới nơi đây.” Khởi từ những cuộc tình cô Thắm “lúa thì con gái mượt như tơ”, ông cũng yêu được những vẻ đẹp Isabelle “cặp mắt nàng xanh đến não người.”

Thi Ca Tiền Chiến, từ Vũ Hoàng Chương, đã từ ngũ cung “Xừ Xang Xế Xự Xang Hồ” mà đi một vòng luân vũ “Điệu kèn biếc quay cuồng.” Đã từ cổ phong, Hát mưỡu hát nói “Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo” mà sang Tự do “Đi chuyến ấy giòng đời ta tự xóa”. Đã chuyển Nguyễn Trãi Yên Sơn sơn thượng tối cao phong; và phổ Thôi Hiệu Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản thành những cao tuyệt mãi mãi Trèo lên tuyệt đỉnh núi Yên chơi, Vàng tung cánh hạc đi đi mất. 

Từ Bài Ca Sông Dịch tới Trả Ta Sông Núi, Vũ Hoàng Chương làm cho Anh hùng Ca thêm phần lẫm liệt. “Không đòi, ai trả núi sông ta?” Từ Giờ Đã Điểm tới Lửa Từ Bi, tiếng thơ Vũ Hoàng Chương nằm trong vận động Lịch Sử của một miền đất nước Tự do không ngừng biến động, nơi ông đã chọn lựa, soi sáng từ những trao đổi với cụ Phan Khôi thuở từ Việt Bắc vọng về: Sao Lại Thế Được? Câu phản kháng tự hỏi, tự phát, từ ý thức của một trí thức thi sĩ, không từ một lập trường đảng phái nào: “Biết gửi vào đâu cái ‘chính mình’?” Đó là khi cụ Phan Khôi gửi cho ông một thông điệp có tính cách mật mã, mật hiệu, lúc hai người còn đang sống dưới ảnh hưởng của Việt Minh: Ngừng tim, lặng óc, bặt giòng tình. Tai mắt như không phải của mình. Sống không tự do, viết không tự do. Và Vũ Hoàng Chương đã thảng thốt: Sao Lại Thế Được? Vũ Hoàng Chương đã dời Đô. Kinh đô Văn nghệ ông ở ngôi Vua. 

Từ Tiền Chiến, bỏ Hậu phương, tại Miền Nam qua hai chính thể trước và sau 1975, ông vẫn làm thơ cho cái Chính Mình. Trước khi bị bắt, trong Lễ Phật Đản 1976, ông đứng ở giảng đường Vạn Hạnh ngâm sang sảng bài Lửa Từ Bi. Sáng ngày 13 tháng 4, khoảng 20 tên công an đã xầm xập xông vào Gác Bút ở phường Cây Bàng bắt ông (1). Nếu đêm hôm trước ông không ngâm bài thơ ấy, những người Cộng Sản hôm sau đã không phải biểu dương võ lực đến như vậy. Họ muốn cuộc vây bắt thi sĩ phải được đồn đại khắp nơi, họ muốn Văn nghệ Miền Nam hiểu rõ -qua vụ Vũ Hoàng Chương-thế nào là không khí khủng bố. Chọn Vũ Hoàng Chương làm một biểu tượng, những người chỉ huy văn nghệ ở Miền Bắc biết rõ họ không thể làm khác với tác giả Bài Ca Sông Dịch

Kẻ đốt sách xưa, Tần Thủy Hoàng, cũng đã không thể làm khác với Kinh Kha. Ta có thể hình dung sự giận dữ của vua Tần, cũng như nỗi hốt hoảng của bạo chúa, trước hùng tâm của một kẻ sĩ. Dù Kinh Kha hay Vũ Hoàng Chương. 

Ai tráng sĩ bao năm mài gươm dưới nguyệt
Còn tưởng nghe hồn thép múa sông sâu.
Kinh Kha hề Kinh Kha!
Vinh cho ngươi hề ba nghìn tân khách
Tiễn ngươi đi, tiếng trúc nhịp lời ca. 

Biên thùy trống giục,
Nẻo Tần sương sa,

Gió thê lương quằn quại khói chiêu hà.
Tám phương trời khói lửa,
Một mũi dao sang Tần…

(Vũ Hoàng Chương, Bài Ca Sông Dịch).

Có ai đau nỗi đau trời đất
Buồn nỗi buồn riêng của núi sông?
Ta nhớ thương hồn hoa cỏ mất
Theo làn mây nhẹ ánh trăng trong.

Núi phía Nam hề sông phía Bắc!
Trời phương Đông hỡi, đất phương Tây!
Mặc cho những kẻ mài gươm sắc
Ta chỉ mài riêng ngọn bút này…

(Vũ Hoàng Chương, Đuốc Thơ

Thơ Mới, hai chữ do cụ Phan Khôi đặt ra trên báo Phụ Nữ Tân Văn số 122, xuất bản ngày 10 Mars 1932 tại Sài Gòn là số báo có bài “Một Lối Thơ Mới Trình Chánh Giữa Làng Thơ” của cụ, kèm theo bài Tình Già “Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa…” “Người hưởng ứng thứ nhất (gửi thơ đăng trên Phụ Nữ Tân Văn) là ô Lưu Trọng Lư,” theo Hoài Thanh Hoài Chân viết trong Thi Nhân Việt Nam. 

Tháng 9 năm 1932, tờ Phong Hóa của nhóm Tự Lực Văn Đoàn ngoài Hà Nội tán thành lời kêu gọi của cụ Phan Khôi, với những bài của Thế Lữ, Vũ Đình Liên…Những gì sau đó đã đi vào Văn học sử. Văn học sử ghi Thơ Say của Vũ Hoàng Chương ra đời năm 1940.

Vũ Hoàng Chương sau đó liên tục làm thơ, chỉ làm thơ. Ông làm thơ từ Bắc vào Nam, từ khi là sinh viên ở Hà Nội tới lúc vào tù ở Sài Gòn, và chết năm 1976, tổng cộng trong khoảng 36 năm. Đó là nói trong khuôn khổ các thời điểm. Nói cho đúng hơn, trước khi có thơ in thành sách, ông hẳn đã làm thơ nhiều năm trước. Có thể nói ông đã làm thơ trong 40 năm.

Những người cùng thời với ông, như Huy Cận, Xuân Diệu, Tế Hanh, Lưu Trọng Lư ngưng sáng tạo trong thơ trước họ Vũ cả chục năm. Có thể họ còn làm dăm bài sau cả 1976 là năm nhà thơ họ Vũ từ trần nữa,  song những bài thơ đó tội nghiệp lắm, so với thơ tác giả Chúng Ta Mất Hết Chỉ Còn Nhau, thi phẩm cuối cùng của Vũ Hoàng Chương do Rừng Trúc in ở Ba Lê vào năm 1974.

Những bài thơ cuối cùng của những người kia tôi có trong tay là những bài thơ được họ tự ý chọn góp vào Tuyển Tập THƠ, 1980-1985, do Tác Phẩm Mới của Hội Nhà Văn Việt Nam xuất bản. (Trong Lời Nhà Xuất Bản, trang 6, Tác Phẩm Mới viết: “Từng tác giả đã chọn những bài thơ hay nhất trong số những bài thơ mình làm trong năm năm.”) Sau đó Hội Nhà Văn chọn lại một lần nữa, “lấy được 168 bài” cho 168 tác giả, mỗi người còn một bài. 

Đây là một đoạn trong bài thơ hay nhất của Huy Cận làm giữa 1980-1985: 

Lòng ta rộn rã tựa chim non
Cổ ngửa trời xanh bỗng hát dồn
Như mạch nước ngầm khơi giếng vụt
Đất yên đất cũng thấy bồn chồn. 
(Huy Cận, Có Những Ban Mai…, trang 41).

Đoạn thơ hay nhất của Thơ Mới Huy Cận, mang tâm trạng đất thi đua với nước, trong tôn chỉ “người người thi đua, nhà nhà thi đua”, đất cũng muốn thi đua với nước, nhưng nước vụt ra được thành giếng, không biết đất vụt đi đâu. Vì đất không vụt được, nên “Đất yên đất cũng thấy bồn chồn.” 

Bài thơ hay nhất của Xuân Diệu đóng góp trong Tuyển Tập Thơ 1980-1985 có đoạn như sau: 

Một tháng anh đau nằm bệnh viện
Mỗi chiều em lại đến thăm anh
Anh ra đứng đợi bên rào sắt
Thấy bóng em xa, đã giật mình. 
(Xuân Diệu, Anh Nằm Bệnh Viện, trang 60). 

Thơ như thế đóng góp vào Tuyển Tập Thơ Hay Ngũ Niên của quốc gia, thì giật mình cũng phải. Mỗi chiều em đều đến thăm anh, mà chiều nào anh cũng giật mình, thì người thơ thật giàu cảm súc cảnh giác với người yêu lắm. 

Một đoạn thơ hay khác trong một bài dài: 

Ta đang đi bỗng bị ngã gãy tay
Gãy tay phải, phải viết bằng tay trái
Gãy cả hai tay, phải tập viết bằng chân…

Ta có đôi chân đi bốn bể
Nếu gãy một ta phải nhờ chiếc gậy
Gãy cả hai ta phải nhờ xe đẩy… 
(Tế Hanh, Bài Ca Sự Sống, trang 90-91).

Chúng ta đang bàn về Thơ mới làm của các nhà thơ nổi tiếng từ thời Tiền chiến ở ngoài Hà Nội. Riêng Lưu Trọng Lư thì dáng chừng trong khoảng năm năm chỉ định không có một bài nào hay, nên góp mặt bằng bài thơ làm từ năm 1979, trong có đoạn: 

Đêm biên giới
Tiếng tắc kè
Tiếng pháo giặc
Lời Anh rung chuyển những chiến hào
Những trái tim con trai, con gái
Và những đầu bạc ấy. 
(Lưu Trọng Lư, Nghe Lời Anh Nói, trang 164).

 Đây là lời Fidel Castro. Bối cảnh là cuộc chiến giữa Trung Cộng và Việt Nam Cộng Sản năm 1979. Một bài hùng thi của Miền Bắc. 

Vũ Hoàng Chương như một cánh phượng hoàng bay bổng. Thơ làm ở giai đoạn sau, hùng thi có Lửa Từ Bi, chống ngay độc tài của Miền Nam. Và nhận thức thì chuyển hóa trong nhiều lãnh vực: từ nghệ thuật đi vào cuộc sống; từ cuộc sống đi vào Đạo và vào cả sự tiến hóa. 

Đã nhiều đêm rồi,
Nó tra hỏi từng khúc quanh trong lòng Lịch Sử,
Từng nép nhăn ngoài mặt Địa Cầu,
Luồng run trên mình nguyên tử.
Vắt cạn Đức Tin, vặn nát Hoài Nghi. 
(Vũ Hoàng Chương, Thản Nhiên). 

Sáu ngả Luân Hồi đâu đó
Mang mang cùng nín thở,
Tiếng nấc lên ngừng nhịp bánh xe quay.
Không khí vặn mình theo
Khóc òa lên nổi gió;
Người siêu thăng
Giông bão lắng từ đây.
Bóng người vượt chín tầng mây
Nhân gian mát rợi bóng cây Bồ Đề.
(Vũ Hoàng Chương, Lửa Từ Bi).

Vũ Hoàng Chương, từ lúc khai bút đên khi gác bút, là hiển lộng duy nhất của Thơ Mới, vượt Thơ Mới, vượt tất cả những tài năng thời Thơ Mới, cả Bắc lẫn Nam, khai triển thêm các kích thước khác, trở thành thi bá của thế kỷ XX của Việt Nam. Những gì Vũ Ngọc Phan viết về Huy Cận, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư trong Thi Nhân Việt Nam, xuất bản năm 1941 và tái bản năm 1942, xét ra không cần viết thêm nữa. Những người đó đã lên tới đỉnh từ trước đó. Từ đó về sau, họ không hay hơn, nếu không là ngược lại. 

Vũ Hoàng Chương không như vậy. Ông cũng đã lên tới đỉnh, như mấy người kia, với Thơ Say, Mây, như Vũ Ngọc Phan viết trong cùng cuốn sách. Từ đỉnh ấy, ngay từ Hà Nội năm 1954, ông xuất bản Rừng Phong, là một đỉnh khác. Thế rồi “con chim bằng cất cánh bay về Nam Minh”, Vũ Hoàng Chương lên cao hơn Mây: Hoa Đăng, lên cao nữa: Nhị Thập Bát Tú. Thơ ông trong hai thập niên ’60, ’70 trở thành ngọc trác kim khôi về phương diện nghệ thuật. Ông bỏ xa những người đồng thời ở phương Bắc, đang cục mịch đi vào chủ nghĩa hiện thực, hăng hái khám phá đường lối tự nhiên, lại là tự nhiên tô hồng, tự nhiên phê phán, không phải thứ tự nhiên trung thực. Vũ Hoàng Chương đi vào ngôn ngữ. Đi vào Thiền. Vũ Hoàng Chương ca ngợi khoa học, không ngược chiều về Quá khứ, mà bay vào không gian vị lai. 

Đêm đêm ta dõi mấy tầng cao
Tìm một không gian mới lạ nào.
Lấp lánh Quê Trời, Thơ hẹn bến
Giam mình Quê Đất mãi hay sao? 
(Vũ Hoàng Chương, Đăng Trình). 

Cuộc tiến hóa trong cuộc sống mở ra những cánh cửa. Cái chết mở ra chiều thứ tư: 

Người thơ nằm xuống đó hiên ngang
Như một câu thơ trắng thẳng hàng
Đẩy mãi bàn chân tìm đất đứng
Ngoài ba chiều cũ đã tan hoang. 
(Vũ Hoàng Chương, Thi Hào Đã Khuất).

 Bài này có thể để khóc người bạn thân kính của ông: cụ Phan Khôi. Có thể để thấy cái ‘chính mình’. Bốn câu, 28 chữ, nhị thập bát tú, đưa thơ ông từ điêu luyện tới giản dị.

Mười lăm năm trước gặp nhau rồi
Chẳng gặp bao giờ nữa cũng thôi
Khuya sớm mây in hình Biển Bắc
Vẫn là anh chị vẫn là tôi. 
(Vũ Hoàng Chương, Mây Trên Biển Bắc). 

Lối thơ này của Vũ Hoàng Chương đã có ngay một người tháp tùng tài ba: Mai Thảo với Ta Thấy Hình Ta Giữa Miếu Đền. Tương tự Hài Cú của Basho, đây là loại thơ đi gần với “bài minh” ở các bia mộ, hay lời kệ của các Thiền Sư. Đặc tính của loại thơ này rất giản dị, và đặc tính đó chỉ hợp, và phải có, cho một bài thơ ngắn. Nhưng để trở thành nhị thập bát tú, 28 chữ là 28 vì sao như thơ của Bạch Vương – một bút hiệu Vũ Hoàng Chương chỉ dùng một hai lần, trên báo Thế Sự năm 1946 – là một chuyện khác. Không có một Bạch Vương. 

IV.

Anh thay đổi thể cách, – đặc biệt có một thể của anh là thơ 6 chân – như trong bài làm cho Tuyết Khanh và làm cho Thục Oanh – một là làm mới ngữ vựng, để theo cảm xúc của mình, và hai là để trở thành mình: hai mà một, chỉ để trở về cái ‘chính mình’, cái chỉ có một và không thể thay. “Pour lui, le pòete d’aujourd’hui doit renouveler son inspiration et son vocabulaire, tout en demeurant fidèle à son “moi”, lequel est unique et inchangeable.” (Pierre-Luis Flouquet, Un Demi Siecle de Poésie, ed. La Maison du Poète, Bỉ, 1963), phần viết về Vũ Hoàng Chương. Và như thế anh luôn luôn là một thi sĩ hiện đại. 

Đuốc kim cổ, đây lòng ta thành kính,
Hội trầm luân cùng ý thức Huyền Vi.
Mà sáu nẻo hôn mê còn chửa định,
Ta về đâu? Kìa Ngươi đến làm chi? 
(Vũ Hoàng Chương, Bài Ca Siêu Thoát). 

Một trong những nét đặc thù của thơ Vũ Hoàng Chương là tính huyền vi. Thơ ông bốc như lửa vàng, nổi như mây trắng, bay như khói xanh. Từ một chiếu nằm, thơ ấy trở thành tấm thảm thần. Ông hô “Khai đăng”- lời hô trong đêm tái ngộ tác giả Thần Hổ, Tchya Đái Đức Tuấn, ở Ba Lê – không có nghĩa là đốt đèn, mà có nghĩa là soi đường.

Ngọn đèn dầu lạc ấy đôi khi cũng là đèn khiển tướng, ra binh; dù là âm binh, cũng thì binh vậy. Vũ Hoàng Chương, như bất cứ một nhà thơ lớn nào, có tài tiên tri, viễn kiến, nhắm mắt định thần mà đoán chuyện nhân sinh. 

Thi Ca Việt Nam có Kệ Vạn Hạnh ở Chùa Lục Tổ, Sấm Trạng Trình ở Bạch Vân Am, Thơ Bói Kiều ở Núi Hồng Lĩnh, Cơ Bút Liễu Hạnh ở Phủ Giầy, Quẻ Tản Đà ở Sài Sơn, gần nhất là Tân Thi của Vũ Hoàng Chương ở Gác Khói. Đời sau đoán Sấm Trạng, Bói Kiều, Cầu Cơ Thánh Mẫu, đặt quẻ Thiên Lương, tất cũng ngẫm thơ Gác Khói. 

Sau 1975, lạc loài ở Hải Ngoại, dân di tản đã phục Vũ Hoàng Chương: 

Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị Quê Hương ruồng bỏ, giống nòi khinh.
Bể vô tận xá gì phương hướng nữa
Thuyền ơi thuyền, theo gió hãy lênh đênh. 
(Vũ Hoàng Chương, Phương Xa).

Hồi 1975, 76, tôi đọc bài Phương Xa nhiều lần. Nhạc sĩ Phạm Duy cũng có cùng tâm trạng, anh gửi tôi bản nhạc phổ từ bài thơ này của họ Vũ, tôi đã đăng trên tờ Thời Tập số 1, ra vào tháng 5.1979 tại Hoa Thịnh Đốn. 

Ở trong nước, Mai Thảo cho biết, anh em, và đồng bào, cũng đọc “sấm ký Vũ Hoàng Chương”: 

Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Một đôi người u uất nỗi chơ vơ 
(như trên). 

Vũ Hoàng Chương còn nhiều câu thơ đoán điềm giải mộng rất hợp thời. 

Ba kiếp lang thang ngồi chụm lại
Chúng ta mất hết chỉ còn nhau. 
(Vũ Hoàng Chương, Ba Kiếp Lang Thang).

Đây là điềm người Việt sẽ phải lưu vong tới thế hệ thứ ba mới khôi phục lại được cố quốc. Không những mất nhà, mất Quê hương, mà còn mất hết. Còn lại nhau hình như là không còn gì. Hay còn lại nhau: tình yêu, là còn tất cả?

Bình sinh mộng đã hoàng hôn
Bông, tre, vải, cói…mồ chôn cuộc đời. 
(Vũ Hoàng Chương, Tâm Sự Một Người)

Hai câu đó trong tập Đời Vắng Em Rồi, hẳn nói về tâm trạng và hoàn cảnh người tù cải tạo sau này. Do đâu mà tự nhiên lại nói đến toàn những thứ khố rách áo ôm đó, nếu không do một mặc khải nào?

Hài cốt vầng trăng hề rơi chìm đáy sông
Dằng dặc bóng đêm hề máu vàng mênh mông.
Hồn ma đại hội cung Hằng vỡ
Tiếng khóc trôi về lạnh bể Đông. 
(Vũ Hoàng Chương, Bài Ca Trâm Gãy). 

Đúng là cảnh thuyền nhân da vàng ngoài Nam Hải những năm sau 1975. Ông còn tiên tri tới cả vầng trăng cũng chết, chứ không những là con người. Hài cốt con người và hài cốt vầng trăng đều chìm xuống bể Đông một loạt. 

Tôi vội bói anh Chương, giống như thỉnh thoảng bói Kiều. Cầm tập thơ anh trên tay, tôi khấn thầm, và lật ra một trang, xem anh đoán mối tình xưa của tôi với người bạn gái ở Gò Dầu Thượng sau này có hy vọng tái hợp chăng? 

Hồn đơn lắng bước chân chiều,
Đâu đây nỗi nhớ niềm yêu bời bời.
Mong manh tình đã rụng rời
Tơ vương còn thắt tim người chia ly.
Áo thêu chăn gấm ngày đi
Lều không quán bỏ, hồn si chợ tàn! 
(Vũ Hoàng Chương, Thơ Say). 

Có lẽ tôi không khấn rõ, nên anh nói còn mơ hồ lắm. Tâm sự này chưa chắc là tâm sự tôi, mà là tâm sự người bỏ đi. Có lẽ người bỏ đi cũng hoang mang đây. Tôi xin bói lại. 

Duyên kiếp gì đâu hề Ta có chờ Ai,
Hương một sớm đã tan hề Hoa đã phai.
Đời họ bỏ ta hề riêng gì kẻ ấy
Tình trót lầm trao hề ta hỡi Ta ơi! 
(Vũ Hoàng Chương, Bài Hát Cuồng, Mây). 

Tôi vẫn còn hoài nghi lắm. Hôm nay nhà không có nhang trầm, thân xác lại còn bụi bậm hồng trần, có khi là không thiêng chăng?

Vả lại, Gia Cát Trần Đoàn có người hay về việc quân, mà dở việc nhà; có người bói điền sản rất hay, mà xem tình duyên lại trật. Cứ xem thơ huyền vi anh Chương, thấy anh đoán việc Nước rất làtài. Mắt anh nhìn thấu ba cõi, sáu phương Trời, mười phương Phật. Thôi để xem việc Nước ra sao. Tôi lại giở tập thơ, xin anh cho 4 giòng thôi, mà nói cho chắc.

Anh ban cho tôi những giòng này:

Năm tháng rồi đây sẽ Thuấn Nghiêu
Đầy xuân đầy nhạc đắm tình yêu
Non sông trời đất khô nguồn lệ
Hoa cỏ mây trăng lại diễm kiều. 
(Vũ Hoàng Chương, Đuốc Thơ). 

Tôi tin những lời này lắm vậy. 

V.

Năm 1994, nhân ngày sinh của Vũ Hoàng Chương, tôi mời Tiến sĩ Trần Huy Bích nói chuyện về thi sĩ tại Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại. Giáo sư Trần Huy Bích là một môn đệ ưu tú của nhà thơ họ Vũ, sở đắc tường tận về thi ca, cũng như biết rõ cuộc đời của nhà thơ. Thì giờ không nhiều, nên giáo sư thu gọn câu chuyện vào một chủ đề: Những Nhân Vật Nữ Trong Thơ Vũ Hoàng Chương. 

Buổi nói chuyện thu hút một số thính giả lớn, ngồi chật trụ sở, nhiều người phải đứng nghe ở bên ngoài, suốt từ đầu đến cuối, khoảng 3 tiếng đồng hồ.

 Vũ Hoàng Chương có nhiều bài thơ tình mỗi bài được viện dẫn như một lời than thở, một nỗi tiếc thương điển hình, song lời than thở này  cho ai, nỗi tiếc thương đó bởi đâu, thì ít người rõ.

— Đầu tiên, là bài Mười Hai Tháng Sáu. Diễn giả nói rằng nhân vật trong bài này là một thiếu nữ 15 tuổi, tên là Tố Uyên. Mối tình dang dở không phải vì cô gái đi lấy chồng, mà cô gái đi lấy chồng chính vì gia đình thi sĩ cố chấp. Gần đây tôi đọc được hai câu này của Vũ Hoàng Chương, làm từ 1936, có lẽ hợp với lời giải thích của anh Bích:

Ôm khối hận gia đình trĩu nặng
Tôi căm hờn thù ghét hôn nhân. 
(Vũ Hoàng Chương, Cũng Vì Em, Đời Vắng Em Rồi)

 [Theo nhà phê bình văn học Đặng Tiến, thì người yêu của Vũ Hoàng Chương khi ông 24, 25 tuổi, nhân vật của bài này, là cô Tố Vân. Tên thật của Tố Vân là Tố Uyển, họ Trần. (Vậy thì Vân là tên Vũ Hoàng Chương đặt riêng để gọi, và nhiều khi gọi là Tố không thôi). Tố của Hoàng trở thành Tố của…ai là vào ngày 12 tháng 6 năm 1941; ai ở đây là ông Đào Bá Cương, tốt nghiệp Tiến sĩ Luật ở Pháp, từ Pháp về làm đám cưới ở Hà Nội. Cả hai ông bà đã là người thiên cổ. Chính quán của họ Vũ, làng Phù Ủng nay là huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, bên này sông Sặt, quê của danh tướng Phạm Ngũ Lão].

Năm 1941 Vũ Hoàng Chương là sinh viên Toán học Đại cương tại Đại học Hà Nội, con nhà Khoa bảng, giàu có (bố làm Tri huyện). Năm 1941 là năm ông thân sinh Vũ Hoàng Chương mệnh một, cho nên cái tang lớn ấy có khi là một ngăn trở cho hôn sự con cái.

Đêm Vàng Thủy Tạ là bài thơ làm cho nữ kịch sĩ Tuyết Khanh. Tuyết Khanh và Vũ Hoàng Chương là một cặp nhân tình trên sân khấu, khi cả hai cùng đóng đôi trong các vở kịch Cô Gái Ma, Lên Đường, Kiều Loan, Vân Muội. Theo Đặng Tiến, vở Vân Muội diễn ngày đầu vào 12.12.1942 tại Hà Nội.

Năm 1980, tôi gặp chị Tuyết Khanh tại Chùa Giác Hoàng, đường 16 thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Đã nhiều tuổi, chị còn đẹp sắc sảo. Tôi hỏi chuyện, chị nói lúc ấy chị yêu Hoàng Cầm; cô con gái Kiều Loan, tên vở kịch của Hoàng Cầm, là con của tác giả vở kịch. Đang là chủ bút tờ Đuốc Tuệ của Cộng Đồng Phật Giáo Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn -chủ nhiệm là Đại Đức Thích Giác Đức- tôi mời chị Tuyết Khanh viết cho một bài về Anh Vũ Hoàng Chương. Chị rất ngần ngại, mãi mới viết. Bài này tôi đăng trên Đuốc Tuệ, rất tiếc nay không còn số báo ấy. (Nhân đây, xin nhắn quí vị ở Vùng tam biên Maryland, Washington, D.C., Virginia, nếu có số báo Đuốc Tuệ ấy, vui lòng sao cho chúng tôi bài viết về Vũ Hoàng Chương, ký biệt hiệu Anh Nương. Xin cảm tạ. V.L.).

Thiên Đường Lại Mở làm cho chị Đinh Thị Thục Oanh, chị ruột của Đinh Hùng, sau là bà Vũ Hoàng Chương. Chị Chương hiện sống tại Sài Gòn. Chị có bài đăng trong số báo này. Thiên Đường Lại Mở là bài thơ hạnh phúc nhất của thi sĩ. Bài thơ cứu rỗi. Qua bài thơ này, ta thấy thi sĩ giống như một cánh chim giang hồ vừa tìm thấy chốn yên bình hạ cánh nghỉ ngơi. 

— Theo Tiến sĩ Trần Huy Bích, Vũ Hoàng Chương còn dăm ba mối tình văn nghệ. Với nữ sĩ Ngân Giang, đó là một mối tình ngắn ngủi. 

Đây là một đoạn trong bài làm cho Ngân Giang: 

Đặt bút cùng ngâm khúc bể dâu
Nổi trôi từ đấy xót cho nhau
Một phen nhật nguyệt tranh ngôi sáng
Hai ngả lòng thu dựng tháp sầu. 

Vũ Hoàng Chương còn làm vài bài thơ cho các người đẹp mắt xanh tóc vàng gặp trong các cuộc Đại hội Văn Bút Quốc tế, mà ông đi dự với tư cách Chủ tịch Trung tâm Văn Bút Việt Nam. Tôi tin đây là tình khói sương, không phải tình gió mưa. Thi sĩ là người của yên ba giang thượng, không phải của vu sơn trầm thủy.

— Nhân vật nữ khiến Vũ Hoàng Chương làm bài thơ cảm động thành kính nhất chính là Mẹ ông. Khi mẹ lìa đời, thi sĩ như một đứa con trẻ: 

Bước giật lùi theo trước áo quan
Ngược về tới phút Mẹ sinh con.
Mẹ vào lòng đất nhưng lòng Mẹ
Con cũng vào theo Mẹ chớ buồn. 

Buổi diễn thuyết kỷ niệm 80 năm sinh của Vũ Hoàng Chương hôm ấy, tại Little Sài Gòn, diễn ra dưới cái nhìn của thi sĩ, vọng tới từ một tấm ảnh phóng lớn, to bằng mặt bàn trong khung nhũ vàng. Sau buổi nói chuyện, Tiến sĩ Bích đã tặng khung hình đó cho tôi, và tấm hình Vũ Hoàng Chương đã được treo suốt 6 năm nay tại phòng sách của tôi, như bây giờ, bên hình của Albert Camus.

VI.

Nhà thơ Vũ Hoàng Chương bị Đảng Cộng Sản Việt Nam giết. Họ đã giết ông như sau này đã giết Hồ Hữu Tường, Trần Việt Sơn: họ tính được cái chết của các nạn nhân, và không dám để các nạn nhân chết trong tù; tất cả đều chết sau một vài ngày được thả. Ông Hồ Hữu Tường chết khi vừa về tới ngõ (xin xem Khởi Hành số 21). Anh Vũ  Hoàng Chương chết vào ngày thứ năm, sau khi được thả. 

Anh Vũ Hoàng Chương là người ra đi đầu tiên trong một loạt những người chết vì tù đày. Tôi từng viết từng nói nhiều lần: sau 15 năm thống trị, từ 1975 tới 1989, năm cởi trói, các đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam hạ sát trí thức văn nghệ sĩ nhiều hơn là thực dân Pháp giết trong 100 năm đô hộ. Nếu kể ngược về 1945, từ Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Khái Hưng, đến thời hậu chia cắt với Từ Chung, con số trí thức văn nghệ sĩ yêu nước bị Việt Minh Cộng Sản thủ tiêu diệt mạng còn chưa ai tính hết. 

Anh Chương là Chủ tịch Văn Bút Việt Nam, bậc tiền nhiệm của chủ tịch Thanh Lãng. Khi nhà văn Vũ Hạnh bị chính phủ quốc gia bắt giữ vì tình nghi là Việt cộng -mà đúng là Việt cộng thật- Linh mục Thanh Lãng và Tổng thư ký Văn Bút Phạm Việt Tuyền đã nỗ lực vận động Văn Bút Quốc Tế và Hội Ân Sá Quốc Tế can thiệp phóng thích. Chính phủ Quốc gia đã phải phóng thích, vì tôn trọng trò chơi Dân chủ, tôn trọng Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Đến khi bậc tiền nhiệm của mình bị bắt, bị bắt về vấn đề tự do tư tưởng, tự do phát biểu, như Vũ Hạnh, nhưng ông Thanh Lãng đã im lặng. Ông đã được Hà Nội thu dụng làm việc tiếp ở Đại học Văn khoa; và Phạm Việt Tuyền thì bận rộn đặt bàn giấy đăng ký các “nhà văn Ngụy”, trước khi chịu nhục không nổi, phải bỏ Sài Gòn chạy qua Pháp. 

Trung Tâm Văn Bút Việt Nam do bác sĩ Trần Kim Tuyến thúc đẩy thành lập để chống Cộng, cho kịp thời với Đại hội Văn Bút ở Tokyo vào năm 1957, lúc ông Phạm Trọng Nhân làm lãnh sự tại Nhật, cuối cùng đã do Việt Cộng điều hành, qua bàn tay Thanh Lãng, Phạm Việt Tuyền. Hơn ai hết, Thanh Lãng, Phạm Việt Tuyền, trước cảnh tù ngục của bậc tiền nhiệm, phải quan niệm im lặng không phải là sự nhục nhã.(2) 

Nhà thơ Vũ Hoàng Chương, từ tháng Tư 1975, cho tới khi từ trần, tháng 9.1976, chỉ trong vòng 17 tháng, đã viết những bài thơ đẹp nhất của sự nghiệp Anh, vì đó là những bài thơ phải trả bằng cái chết. Nghe nói anh để lại một số di cảo, những bài làm ở Gác Bút phường Cây Bàng từ tháng Tư 75 tới tháng 4.1976, và những bài làm trong tù từ tháng 4.1976 tới tháng 9.1976. Tập này, cần được thu thập để phổ biến. Đây là những Tuyên ngôn Thơ, những cảm nhận và phát biểu cuối cùng của anh ở Quê Đất, trước khi về Quê Trời. Tôi nghĩ, nhị thập bát tú Vũ Hoàng Chương, nay là từng nhóm 28 vì sao ở trên trời, đêm đêm ta có thể ngước lên tìm đọc.
 

THIÊN THƯ 

Tinh ngữ từng chương trải sách trời
Đất nghe lời đá chữ về ngôi.
Nhân gian chậm hiểu thiên đường lỡ
Đọc lại thơ người sẽ kịp thôi. 

THIÊN THƯ II

Cái chuyến anh đi đất nước tàn
Hành trình địa ngục, bến nhân gian.
Thuyền về tưởng chở đầy khoang đá
Mới biết lòng tôi muốn quá giang.

THIÊN THƯ III 

Đọc lại thơ anh suốt một tuần
Soi gương nhìn thấy gã văn nhân
Ra đường thấy mắt ai như phượng
Người lạ cầm tay tưởng rất thân. 

THIÊN THƯ IV

Thức suốt đêm dài giở sách xưa
Gặp kinh thành cũ, mộng ban sơ
Trái tim thổn thức tình niên thiếu
Tới sáng người yêu có vẻ ngờ.

THIÊN THƯ V 

Gấp sách vô giường vẫn thấy sao
Chiếu chăn đợi mãi chẳng ai vào.
Hóa ra ta sống không thân quyến
Mà tưởng người trong sách mới chào.
 

VIÊN LINH

Santa Ana, tuần giỗ Vũ Hoàng Chương, 1999.

 

Chú thích:

(1) Theo Thi Vũ, Bốn Mươi Năm Thơ Việt Nam, trang 462, thì Lễ Phật Đản năm 1976  là ngày 25.5.76, và “Liền sau đó Vũ Hoàng Chương bị bắt.” Chiếu qua Âm lịch thì 25.5.76 nhằm 23 tháng 4 Bính Thìn. Như Mai Thảo viết trên đây, 13 tháng 4.76 mới là 14 tháng 3 Âm lịch, không ai tổ chức Phật Đản sớm thế.

Mai Thảo, trong Mấy Tháng Cuối Cùng Của Vũ Hoàng Chương, viết Vũ Hoàng Chương mất ngày 19.8.1976, trong khi theo Đặng Tiến, trong số báo này, nhà thơ mất ngày 6.9.1976. Ông mất 5 ngày sau khi được thả khỏi nhà tù. Có phần Mai Thảo sai về ngày mất của Vũ Hoàng Chương. Chúng tôi sẽ xem lại các chi tiết này khi in trong Chiêu Niệm Văn Chương.

(2) Nhà thơ Vũ Hoàng Chương chết vì ngòi bút. Các đảng viên Cộng Sản Việt Nam không dung được ông, không dung được những người có dũng cảm trí thức, dù những người đó đã ở tuổi già, đã không còn đất để tung hoành. Nhiều người chỉ còn muốn giữ mạng mình cho một gia đình thân yêu nhỏ bé, cho vợ con, cũng không nổi. Nói gì đến viết. Nói gì đến việc xuất bản tác phẩm. Thế mà từ hải ngoại, vẫn có những người bươn chải để tác phẩm được Hà Nội cho phép xuất bản ở trong nước. 

Làm sao những Nguyễn Thụy Long, Vương Đức Lệ đang ở trong nước mà không in được tác phẩm của mình, mà Hà Nội lại cho phép một người đang ở hải ngoại in tác phẩm của mình, ngay ở Sài Gòn, ngay ở Hà Nội, và sách lại do Hội Nhà Văn in? Tôi đặt câu hỏi này cho nhà văn Nguyễn Mộng Giác, chủ bút tờ Văn Học đang xuất bản ở Nam Cali, người vừa có tác phẩm được Hội Nhà Văn Hà Nội in, và mới về Hà Nội, Sài Gòn, để cổ động cho cuốn sách. Làm sao anh tài thế? Trước cái chết của Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Mạnh Côn, Dương Hùng Cường, chết vì những gì họ viết, mà sao những gì anh viết lại được Hà Nội hoan nghênh, trong khi anh đang ở Garden Grove, Quận Cam? 

Có những điều chín bỏ làm mười xét ra không tốt. Năm ngoái lên Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ, tôi đọc lại tờ Thời Tập Tuyển Tập Nhà Văn Trẻ, tháng 6.1974, trong đó tôi đã chọn anh là một, bên các nhà văn nhà thơ có triển vọng như Phạm Thiên Thư, Ngụy Ngữ, Trần Hoài Thư, Nguyễn Đạt, Cung Tích Biền, Nguyễn Tôn Nhan, Hoàng Ngọc Tuấn… Anh xuất hiện sau những người trên, hầu như những người đó ai cũng đã xuất hiện trên Khởi Hành quốc nội (số 1 ra vào tháng 5.1969), chỉ riêng anh đến sau, chỉ trên Thời Tập, là lúc Khởi Hành đã đóng cửa. Thế mà trên tác phẩm đầu ở hải ngoại, để lấy thêm thanh thế, anh đã ghi trong tiểu sử là từng viết cho Khởi Hành hồi ở Saigon. Sự thực là anh không có bài đăng trên Khởi Hành như những người kia. CHính anh sau đó đã xác nhận với tôi điều này. 

Đã thế, từ sau khi ở Hà Nội về, anh viết trên Văn Học đả kích tôi về chuyện Văn Bút. Trước đó, tờ Văn Học của anh từng phỏng vấn tôi, nhờ tôi làm số đặc biệt Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát. Bài anh đả kích tôi xuất bản cùng thời gian với tờ Quân Đội Nhân Dân (số 12731 ra ngày thứ Năm 24.10.1996-xin xem phóng ảnh) và tờ Văn Hóa của Bộ Văn Hóa Thông Tin Hà Nội (số 181 ra ngày 11.8.1996-xin xem phóng ảnh) đả kích việc Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại lúc ấy do tôi làm chủ tịch đã “ngựa theo đường cũ” lại còn mở chi nhánh sang tận Đông Âu, thành lập Trung tâm Văn Bút Đông Âu, trụ sở đặt ở Đông Bá Linh, là vùng đất xưa nay nằm trong vòng kiểm soát của Hà Nội. Nếu tôi không qua Ðông Bá Linh đọc thơ, nói chuyện, vận động mở thêm Trung tâm Văn  Bút, thì Văn Bút và cá nhân tôi đã không bị một số báo chí a dua đả kích như nhiều người đã thấy.

Việc đánh phá Văn Bút trong thời gian tôi làm chủ tịch không phải là chuyện cá nhân. Không phải một hai người muốn ra tranh cử đánh phá người đương nhiệm, mà nhiều người không ra tranh cử, rất vô danh, nhất tề đánh phá. Huy động những tờ báo ấy làm cùng một việc giống nhau là chuyện không cá nhân nào làm nổi, mua chuộc nổi, mà phải do một tổ chức thúc đẩy.  Tôi không trả lời bất cứ một tờ báo nào, nhưng không hề biết có báo anh cho đến vài tháng nay. 

Tờ Quân Đội Nhân Dân số nói trên gọi tôi là “một nhà văn Miền Nam thời Mỹ Ngụy… muốn phát triển thế lực và mở rộng địa bàn hoạt động (chống Cộng) “đã tổ chức được Trung tâm Văn Bút Đông Âu như một chi nhánh”. Tờ Văn Hóa, số nói trên, cũng viết tương tự còn nói rõ việc tôi “ngày 24 tháng 2 năm nay (96) tổ chức Đại hội V ở  California.” Đây là hai phát pháo lệnh, và sau đó, nhiều báo ở Hải Ngoại nhất tề viết theo, đặc biệt là đánh phá việc mở nhiều Trung tâm (chi nhánh) Văn Bút. Mở càng nhiều càng tốt, sao lại đánh phá?

Từng viết trong Văn chương Miền Nam, đi tị nạn như một người Miền Nam, ra báo như Văn học Miền Nam, lấy thanh thế từ báo chí Miền Nam và sống tại Quận Cam, nhưng vận động Miền Bắc in tác phẩm của mình, và tác phẩm ấy đã được chấp thuận in ra, tôi tin là trong tác phẩm ấy, và hành vi của tác giả nó, và trong các tác phẩm khác của người này, chứa đựng nhiều khuất tất.

Viên Linh

Nguồn: Tạp chí Khởi Hành số 35, 9/1999
http://www.tanvien.net/Tribute_1/vhc_by_vienlinh.html

 

Bài Cùng Tác Giả:

0 Bình luận

Bình Luận