Chương 16. Người về từ Iraq
phỏng dịch truyện Dear John của Nicholas Sparks
Nàng đã yêu người khác.
Tôi biết tỏng ngay điều này ngay cả trước khi đọc xong lá thư, và ngay lập tức cả thế giới dường như ngừng lại. Phản ứng đầu tiên của tôi là muốn đấm vô tường, nhưng tôi chỉ xếp lá thư lại thảy qua một bên. Tôi giận dữ vô cùng, hơn là cảm thấy bị phản bội. Dường như nàng đã chà nát hết những điều có ít nhiều ý nghĩa đối với tôi trên đời này. Tôi thấy ghét nàng, và ghét cái tên cốt đột vô danh tiểu tốt nào đó đã cướp nàng khỏi tay tôi. Tôi tưởng tượng là nếu ông bà xui khiến tên này mà gặp tôi thì sẽ thân tàn ma dại liền. Cùng một lúc tôi lại mong ước được nói chuyện với nàng, tôi muốn bay về gặp nàng, hay là ít ra gọi nàng qua điện thoại. Một phần của tôi không thể tin và không muốn tin. Nhứt là lúc này, nhứt là những gì hai đứa đã chia xẻ với nhau. Chỉ còn chín tháng nữa – sau gần ba năm, sao nàng lại không chờ được.
Nhưng tôi không bay về gặp nàng, cũng không gọi nàng. Tôi không viết thư trả lời và cũng không nghe tin tức gì từ nàng nữa. Phản ứng duy nhứt của tôi là vuốt thẳng lá thư lại ngay ngắn, bỏ lại vô bì thư, và quyết định là sẽ mang nó theo bên mình như một vết thương trận mạc vậy. Trong vài tuần kế đó, tôi trở thành một tên lính say mê chuyện đánh đấm, lăn mình xả thân vào cái thế giới duy nhất có thật đối với tôi lúc đó. Tôi xung phong tham dự những nhiệm vụ nguy hiểm, tôi ít khi mở miệng nói chuyện với ai trong đơn vị….
Tôi không tin được ai trong thành phố, và mặc dù không có “tai nạn” gì đáng kể – như nhà binh hay gọi mấy vụ dân bị đạn lạc – nhưng nói thiệt là tôi không kiên nhẫn tí nào khi đụng với dân Iraq. Mặc dù tôi ít ngủ nhưng đầu óc lúc nào cũng tỉnh táo trên đường tiến quân về Baghdad. Oái ăm thay, chỉ khi nào lăn xả vào đường tên mũi đạn thì tôi mới tạm quên được hình ảnh Savannah và cái thực tế là chuyện tôi và nàng đã nửa đường đứt gánh.
Cuộc đời tôi làm như lên voi xuống chó theo cuộc chiến. Chưa đầy một tháng sau khi tôi nhận lá thư thì đánh chiếm xong Baghdad, và mặc dù có chút phẩn khởi lúc đầu, tình hình càng ngay càng rắc rối và xuống dốc theo ngày tháng. Cuối cùng tôi nghiệm ra là cuộc chiến tranh này cũng không khác gì những cuộc chiến tranh khác. Chiến tranh nào cũng là để thôn tính quyền lực và lợi nhuận, nhưng hiểu ra như vậy thì cũng không làm cho đời lính ngoài tiền tuyến dễ chịu hơn tí nào. Sau khi chiếm đóng Baghdad, cả đơn vị tôi biến thành cảnh sát và quan tòa. Là lính chiến, tụi tôi đâu có học làm mấy chuyện này. Đứng ở ngoài nhìn vô hay là phân tích chuyện đã qua thì cũng đoán được đại khái những chuyện tụi tôi làm, nhưng tại hiện trường thì không đơn giản như vậy.Nhiều lần dân chúng báo cáo cho tụi tôi hay là có mấy tên cốt đột ăn cắp ăn trộm này nọ và đòi hỏi tụi tôi phải ra tay can thiệp. Nhưng đó đâu có phải là nhiệm vụ của tụi tôi. Tụi tôi ở đây chỉ để giữ trật tự, căn bản là để tiêu diệt mấy tên tàn quân đang rán bắn sẻ và giết hại dân lành, cho tới khi nào người Iraq có thể tự quản được. Mà chuyện này cũng đâu dễ dàng gì, hay là ngày một ngày hai, ngay cả ở mấy chỗ ít lộn xộn. Trong lúc đó thì mấy thành phố khác lại rơi vào tình trạng hỗn loạn, và tụi tôi được điều tới để tái lập trật tự. Kẹt một nỗi là tụi tôi tới nơi dẹp hết mấy phần tử chống đối, nhưng vì không đủ lính để ở lại duy trì trật tự nên khi tụi tôi rút đi thì đâu lại hoàn đấy.Có nhiều ngày cả đơn vị tôi ai cũng ngán ngẩm cái chuyện này mặc dù không ai nói ra.
Ý tôi muốn nói là tôi không biết diễn tả ra sao sự căng thẳng và chán nản và nghi hoặc trong chín tháng ở đây, ngoại trừ một điều là cát nhiều quá. Đúng vậy, tôi biết đây là sa mạc, và tôi ngồi đồng ở bãi biển rất là nhiều cho nên cát đâu gì là lạ, nhưng cát ở đây khác cát ở biển. Nó chui vô quần áo, vô súng ống, vô mấy cái hộp đậy kín, vô đô ăn thức uống, vô tai, vô mũi, và khi tôi nhổ nước miếng thì thấy cát lượm cợm trong miệng. Ít ra thiên hạ cũng hiểu được chuyện này, và tôi cũng học được là người ta không muốn nghe sự thật phũ phàng, rằng là phần lớn thời gian ở Iraq không đến nỗi nào, nhưng có nhiều lúc thì tệ hơn cả ở địa ngục. Thiên hạ đâu có muốn nghe chuyện tôi chứng kiến một thằng đệ tử của tôi bắn nhầm một em bé. Hay là tôi đã tận mắt thấy một đồng đội đạp trúng mìn IED trên đường gần Baghdad, thân xác tan nát ra thành ngàn mảnh vụn. Hay là máu chảy trên đường phố như nước mưa, trôi qua những xác chết. Không, thiên hạ chỉ muốn nghe chuyện cát, bởi vì cát che dấu bớt đi chuyện chiến tranh.
Tôi làm nhiệm vụ của một người lính hết sức mình, xin gia hạn tại ngũ và ở Iraq cho tới tháng Hai năm 2004, xong về lại Đức. Về tới nơi là tôi mua liền một chiếc xe Harley và rán tỉnh khô làm như là mình bình an vô sự qua mấy năm chinh chiến; nhưng ác mộng thì triền miên, sáng nào tôi cũng thức dậy mồ hôi ra ướt mình. Trong ngày lúc nào tôi cũng thấy căng thẳng, chuyện gì một chút cũng làm tôi nổi nóng lên được. Khi đi dạo trên đường phố ở Đức, lúc nào tôi cũng nhắm chừng vô mấy người tụ năm tụ bảy ở gần mấy tòa nhà, và tôi thường nhìn lướt qua mấy cửa sổ trong khu phố chính, coi thử có mấy tên bắn sẻ núp không. Ông bác sĩ tâm lý – đứa nào cũng phải gặp một ông – nói như vậy là bình thường và từ từ thì mấy chuyện như vậy sẽ không còn nữa, nhưng đôi khi tôi thắc mắc là biết đâu cứ như vậy hoài không biết chừng.
Sau khi rời Iraq, thì thời gian trú đóng ở Đức không có ý nghĩ gì với tôi hết. Thì tôi cũng tập thể dục buổi sáng, dự lớp huấn luyện về vũ khí và hành quân buổi chiều, nhưng mọi chuyện không còn như cũ nữa. Bị thương nhẹ ở tay nên Tony được giả ngũ với huy chương Purple Heart, nó được gởi thẳng về Brooklyn ngay sau khi Baghdad thất thủ. Thêm bốn mạng nữa trong đám đệ tử của tôi hết hạn quân dịch và giải ngũ cuối năm 2003; tôi nghĩ – và tụi nó cũng nghĩ như vậy – là tụi nó đã làm xong nhiệm vụ với tổ quốc; và đã tới lúc tụi nó về tiếp tục với cuộc đời dân sự. Tôi thì ngược lại, tôi xin gia hạn thêm lần nữa. Tôi không chắc là làm như vậy có đúng không nhưng nếu giải ngũ xong thì tôi làm cái quái gì đây.
Nhưng giờ nhìn lại đơn vị mình tôi thấy mình trật chìa. Trong đơn vị toàn là những khuôn mặt búng ra sữa. Tụi nó đều dễ dạy nhưng sao bằng đám trước, những thằng bạn đã chung nhau từ hồi mới nhập ngũ cho tới những ngày trú đóng ở Balkans. Tôi chưa ra trận với đám lính mới này, và trong thâm tâm mình tôi biết là sẽ không thể nào thân thiết với đám này như là đối với đám cũ được. Lúc nào tôi cũng cảm thấy là một người xa lạ. Tôi tập thể dục một mình và tránh mọi tiếp xúc cá nhân, và tôi biết là mấy tên lính mới này nghĩ về tôi ra sao, rằng là tôi là một tên thượng sĩ già, người từng tuyên bố là không muốn gì hơn là lo cho tụi nó xong chuyện lính tráng được về với mẹ bình an vô sự. Tôi nhắc đi nhắc lại điều này trong khi tập luyện, một cách thiệt tình. Tôi có thể làm bất cứ điều gì để cho tụi nó được bình an vô sự. Nhưng như tôi đã nói, cái tình đồng đội không giống như hồi trước nữa.
Không còn bạn bè nữa tôi dành nhiều thì giờ cho ba tôi. Sau chiến dịch, tôi lấy phép dài hạn mùa xuân năm 2004 về thăm ba tôi, rồi thêm một kì phép nữa vào mùa hè. Hai cha con gần gũi với nhau trong bốn tuần này hơn là trong mười năm qua. Vì ba tôi đã về hưu nên trong ngày hai cha con muốn làm gì thì làm. Tôi thì chỉ theo thời khóa biểu của ba tôi. Sáng dậy ăn sáng, trong ngày thì ba lần đi dạo, buổi tối ăn tối. Những lúc khác thì hai cha con nói chuyện tiền cắc, và còn mua thêm mấy đồng nữa khì tôi xuống phố. Nhờ internet mà mấy chuyện này giờ dễ dàng, và chuyện tìm kiếm săn đuổi cũng không hấp dẫn như hồi xưa nữa. Tôi không biết là ba tôi có thấy khác gì không. Tôi nói chuyện với mấy người mua bán quen hồi mười mấy năm về trước, họ vẫn còn nhớ tôi, thân thiện vui vẻ.Tôi nghiệm ra là cái thế giới của những người sưu tầm tiền cắc cũng không lớn lao gì, ai cũng biết ai. Khi hàng mua về, thường là gởi hỏa tốc qua đêm, ba tôi và tôi thay phiên nhau xem xét đồng tiền coi thử có chỗ nào bị khuyết, và thường hai cha con đồng ý với nhau về thứ hạng phẩm chất của đồng tiền theo cái Hiệp Hội Phân Cấp Tiền Cắc Nhà Nghề, một công ty chuyên phẩm định gái trị của tiền cắc sưu tầm. Đầu óc tôi thì cũng lan man nghĩ tới chuyện khác như ba tôi thì có thể nhìn chăm chú vô một đồng tiền cả mấy giờ đồng hồ, làm như thể là có cái bí mật gì đó dấu trong đồng tiền.
Hai cha con không nói chuyện gì nhiều, nhưng mà cũng chẳng có gì cần nói nhiều. Ba tôi chẳng thích hỏi chuyện Iraq mà tôi cũng không muốn kể. Hai cha con không không có chuyện gì khác để nói – Iraq thì chỉ có chuyện đánh đấm – còn ba tôi thì … là ba tôi, và tôi chẳng ráng gượng ép làm chi cho mắc công.
Tuy nhiên tôi cũng lo lắng cho ổng. Khi đi bộ ổng thở nặng và mau mệt. Khi tôi góp ý là có lẽ đi bộ hai mươi phút thì hơi nhiều, ngay cả đi chậm, thì ổng nói là bạn sĩ ra toa như vậy, tôi đành chịu thua. Sau khi đi bộ xong coi bộ ổng còn mệt hơn lúc chưa đi, và thường cả giờ sau thì hai má ổng mới bớt tái xanh. Tôi nói chuyện với bác sĩ thì mới hay là tim ổng bị suy nặng, còn đi được như vậy là may lắm. Không đi bộ thì sẽ càng tệ hơn nữa.
Không biết có phải vì cuộc nói chuyện với ông bác sĩ, hay chỉ vì tôi muốn tình cha con thêm đậm đà mà hai cha con gần gũi nhau hơn bao giờ hết. Thay vì rán ép ổng nói chuyện, tôi chỉ ngồi với ổng trong phòng làm việc, đọc sách hay chơi ráp hình trong khi ba tôi nghiên cứu mấy đồng tiền cắc. Tôi an nhiên tự tại và không trông đợi gì, và tôi nghĩ là ba tôi từ từ cảm nhận những thay đổi giữa cha con. Một đôi khi tôi bắt gặp ba tôi nhìn tôi rất lạ. Hai cha con nhiều khi ngồi chung trong phòng cả mấy tiếng đồng hồ mà không ai nói với ai câu nào, và trong sự im lặng kì cục này mà hai cha con trở nên gần gũi với nhau. Tôi thường ước gì là ba tôi đừng có quăng bỏ tấm hình chụp hai cha con hồi đó, và khi hết phép phải về lại Đức tôi biết là tôi sẽ nhớ ổng nhiều, không chỉ lớt lớt như là xưa nay.
Mùa thu 2004 trôi qua lừ đừ, rồi mùa đông, rồi mùa xuân 2005 cũng vậy. Cuộc đời cứ tiếp tục một cách bình thường. Một đôi khi có tin đồn về chuyện đơn vị tôi sẽ quay lại Iraq làm cái thời khóa biểu đều đặn của tôi hơi xáo trộn một chút, nhưng tôi đã từng đánh đấm ở đó rồi nên mấy tin đồn này cũng chẳng áp phê gì mấy. Nếu cứ đóng quân ở Đức như vầy hoài cũng được, mà có quay lại Iraq thì cũng không sao. Tôi cũng theo dõi tình hình Trung Đông như mọi người, nhưng sau khi bỏ tờ báo xuống hay tắt cái TV đi thì đầu óc tôi lại lan man nghĩ đến mấy chuyện khác.
Lúc đó tôi hai mươi tám tuổi, và tôi không thể nào tránh được nỗi ám ảnh là mặc dầu tôi già dặn nhiều hơn những người đồng lứa nhưng cuộc đời tôi như vẫn dậm chân tại chỗ. Tôi đi lính để trưởng thành ra, có thể là như vậy, nhưng đôi khi tôi thắc mắc là có phải như vậy không. Tôi trên răng dưới dái, không nhà không cửa, không xe không cộ, và ngoài ba tôi ra thì không có ai thân thuộc nữa trên cõi đời này nữa. Trong khi trong ví mấy tên đồng đội xếp đầy dẫy hình ảnh vợ con thì tôi chỉ có mỗi một tấm hình đã nhạt màu của một người đàn bà mà tôi đã thương và mất. Tôi nghe mấy thằng đệ tử hoạch định chuyện tương lai, còn tôi thì không có gì cả. Đôi khi tôi nghĩ không biết tụi nó nghĩ sao về tôi, vì có đôi lần tôi bắt gặp mấy thằng nhìn tôi với ánh mắt hiếu kỳ. Tôi không bao giờ nói chuyện đời tư của tôi cho tụi nó nghe. Tụi nó không biết gì về Savannah hay ba tôi hay Tony. Những kỷ niệm này tôi chỉ muốn giữ riêng cho tôi, bời vì theo kinh nghiệm của tôi thì không nên kể lể mấy chuyện này cho ai hết làm chi.
Ba tôi lên cơn tim lần thứ nhì vào tháng Ba năm 2005, biến chứng làm cho ổng bị sưng phổi và phải vô nhà thương nằm phòng cấp cứu một tăng nữa. Sau khi xuất viện vì một số thuốc uống hàng ngày nên bác sĩ không cho ổng lái xe nữa, cũng đỡ là nhờ nhân viên xã hội của nhà thường giúp tôi tìm dùm người đi chợ dùm ổng. Tới tháng Tư tái khám, bác sĩ biểu ổng không được đi bộ nữa. Tới tháng Năm thì ổng uống cả tá thuốc hàng ngày và tôi biết là ổng nằm trên giường suốt ngày. Mấy lá thư ổng viết hầu như không đọc được, không phải vì ổng yếu sức mà vì tay run. Qua điện thoại tôi năn nỉ một người láng giềng – là một y tá làm việc ở nhà thương địa phương – chăm sóc coi ngó dùm ổng. Và tôi thở phào bớt lo trong lòng, chờ tới ngày giải ngũ vào tháng Sáu.
Nhưng bệnh tình của ba tôi tệ dần trong mấy tuần kế tiếp, nói chuyện qua điện thoại tôi nghe được cả cái nỗi tàn tạ càng ngày càng hằn sâu trong ông. Lần thứ nhì trong đời tôi xin thuyên chuyển về gần nhà. Ông xếp tôi coi bộ thông cảm với tôi hơn lần trước, thăm dò tình hình và giúp tôi điền đơn xin thuyên chuyển về Fort Bragg để huấn luyện nhảy dù. Nhưng khi tôi nói chuyện với bác sĩ thì ổng nói là tôi về gần nhà cũng không ăn thua gì. Tốt nhứt là tôi nên gởi ba tôi vô một nhà điều dưỡng. Ổng nói là ba tôi cần người chăm sóc mà ở nhà thì không đầy đủ được. Ổng nói là lâu nay ổng đã rán thuyết phục mà ba tôi không chịu – lúc này ba tôi chỉ còn ăn cháo – nói cho tới khi nào tôi về rồi hẵn hay. Ông bác sĩ cắt nghĩa là không biết vì lí do gì mà ba tôi muốn là có tôi về thăm ổng ở nhà một lần cuối.
Nghĩ mà thấy nát lòng, ngồi trên xe tắc xi từ phi trường về nhà tôi rán tự thuyết phục mình là ông bác sĩ nói quá đáng. Nhưng ông đã nói thiệt. Ba tôi nằm trên ghế xa lông, đứng dậy không nổi khi tôi đẩy cửa bước vô nhà, và hình như mới một năm qua mà ổng đã già đi ba mươi tuổi. Da ổng hầu như tái mét, và ổng ốm tong ốm teo nhìn thấy phát sợ. Tôi thấy nghẹn trong cuống họng, để cái túi ma rin xuống sàn nhà.
‘Ba khỏe không ba,” tôi hỏi.
Thoạt tiên tôi không biết là ba tôi có nhận ra tôi không, nhưng rồi tôi nghe một giọng nói yếu ớt. “John đó hả.”
Tôi lại đằng ghế xa lông, ngồi xuống bên cạnh ba tôi. “Ba khỏe không?”
“Khỏe”, ông chỉ nói có vậy. Và hai cha con ngồi im lặng một lúc, không ai nói tiếng nào.
Cuối cùng tôi đứng dậy vô coi nhà bếp ra sao, và giật mình. Hộp súp trống từng chồng khắp nơi. Đồ ăn tràn lan trên bếp ga, thùng rác đầy ắp, chén dĩa dơ chồng chồng lớp lớp trong bồn rửa chén. Một chồng thư chưa đọc nằm vung vãi trên bàn ăn. Nhìn là biết là lâu lắm rồi không ai lau dọn gì hết. Phản ứng đầu tiên của tôi là muốn chạy qua nhà bà hàng xóm cự một mách. Nhưng nghĩ lại, thôi để đó cái đã.
Tôi tìm một hộp súp gà, khui ra, đốt lò và hâm nóng lên. Xong tôi múc ra tộ, để vô khay và bưng lại cho ba tôi. Ổng mỉm cười một cách yếu ớt, lộ vẻ cám ơn… Ổng ăn hết, không chừa một chút gì dính tô, và tôi múc thêm một tô nữa, trong bụng càng tức thêm, không biết là ba tôi bị bỏ đói mấy ngày rồi. Khi ổng ăn xong, tôi đỡ ông nằm dài xuống ghế, xong một chút xíu thì ổng ngủ khò.
Bà hàng xóm không có ở nhà, cho nên cả buổi chiều và tối tôi lui cui lau dọn nhà cửa, bắt đầu với nhà bếp rồi phòng tắm. Khi dọn tới giường ngủ tôi thấy ra nệm dơ dáy, tôi nhắm mắt lại, tức cành hông, chỉ muốn vặn cổ bà hàng xóm.
Sau khi nhà cửa tương đối sạch sẽ gọn gàng, tôi ngồi trong phòng khách nhìn ba tôi ngủ. Ổng nhìn nhỏ con, có chút xíu dưới tấm mền, khi tôi với tới vuốt tóc ổng thì có mấy cọng rớt theo. Tôi bắt đầu khóc, biết chắc là ba tôi đang chết từ từ. Lâu lắm rồi tôi mới khóc, và đây lần đầu tiên trong đời tôi khóc cho ba tôi, và khóc thật lâu.
Tôi biết ba tôi là một người tốt, hiền, và mặc dù bị bệnh ỗng vẫn rán nuôi dưỡng tôi đường hoàng. Không bao giờ ổng đánh tôi khi nổi nóng, và tôi bắt đầu tự đì đọa mình khi nhớ về những quãng thời gian dài tôi cứ đổ thừa ổng về mọi chuyện trên đời. Tôi nhớ lại hai lần đi phép vừa rồi và đau đớn nhận ra là hai cha con sẽ chẳng bao giờ được bên nhau như vậy nữa.
Sau đó tôi ẵm ba tôi vô giường. Ổng nhẹ hều. Tôi đắp mền cho ông và trải tấm nệm dưới đất cho tôi ngủ đỡ. Tôi nằm nghe ba tôi thở phì phò, nghiến răng trèo trẹo. Ổng thức giấc nửa đêm, ho sùng sục không dứt; tôi tính chở ổng đi nhà thương thì may sao ổng ngừng lại.
Ba tôi hoảng hồn khi nghe tôi nói tính đem ổng vô nhà thương. “Đừng, đừng…”, ông phều phào năn nỉ. “Ba không muốn vô trỏng.”
Tôi phân vân, nhưng cuối cùng thì chìu theo lời ba tôi. Đối với một người nề nếp như ba tôi, nhà thương không chỉ là một nơi chốn xa lạ mà còn nguy hiểm nữa, một nơi cần nhiều công sức để sống theo, nhiều hơn là ổng có thể làm được. Bây giờ tôi mới thấy là ổng són đái ra giường.
Ngày hôm sau, bà láng giềng lại, bà xin lỗi là mấy ngày rồi không dọn dẹp nhà bếp được vì con gái bã bị bệnh, tuy nhiên bã có dọn giường và thay ra hàng ngày, và bảo đảm là có đủ súp hộp cho ba tôi. Bã đứng trước hiên nhà nói chuyện, tôi nhìn thấy nét mặt mệt mỏi của bà, những lời hằn học giận dữ trong bụng tan biến mất tiêu. Tôi nói với bã là tôi cám ơn vô cùng về sự giúp đỡ của bã.
“Đâu có gì đâu, bà con xa láng giềng gần mà” bã nói. “Bao nhiêu năm nay ông bác đã rất tốt với gia đình tôi. Ổng không bao giờ phàn nàn về mấy đứa con tôi ồn ào khi tụi nó còn loai choai, và lúc nào ổng mua đồ ủng hộ tụi nó hết mình trong mấy chuyện quyên tiền này nọ. Ổng giữ vườn tược sạch sẽ, và khi tôi cần người coi nhà dùm thì lúc nào ổng cũng sẵn lòng. Ổng là một người láng giềng toàn hảo.”
Tôi mỉm cười. Như được khuyến khích bã nói thêm.
“Nhưng nói cho cậu biết là ổng không phải lúc nào cũng cho tôi vô nhà. Ổng nói là ổng không thích tôi để đồ không đúng chỗ theo ý ổng, không thích cái cách tôi lau dọn, hay sắp xếp giấy tờ trên bàn làm việc. Thường thì tôi mặc kệ ổng muốn nói gì thì nói, nhưng khi ổng thấy khỏe trong mình thì ổng nhứt định không chịu cho tôi vô nhà, và tôi mà tính vô đại thì ổng đòi kêu cảnh sát nữa…”
Bã ngưng lại, và tôi nói tiếp dùm.
“Rồi tôi không biết phải làm gì.” Khuôn mặt bà lộ cái cảm giác tội lỗi.
“Bác đừng lo,” tôi nói. “Không nhờ bác thì ổng không làm sao mà tự xoay sở lấy.”
Bà hàng xóm gật đầu, khuôn mặt bình thường trở lại. “Tôi thấy nhẹ nhõm trong người khi thấy cậu về,” bã ngần ngừ, “tôi muốn đề nghị với cậu chuyện này.” Bà đưa tay giả bộ phủi bụi trên cánh tay. “Tôi biết có một chỗ rất tốt, nếu ông bác vô đó thì sẽ được chăm sóc đầy đủ. Nhân viên của họ rất nhiệt tình và cao tay nghề. Lúc nào cũng không có chỗ trống nhưng tôi quen biết với ông giám đốc, và ông này cũng biết ông bác sĩ của ba cậu. Tôi nghĩ cũng đau lòng nhưng vô đó là cách tốt nhất cho ông bác, và tôi mong là…”
Bã ngừng lại, không nói dứt câu. Tôi thấy là bã lo cho ba tôi thiệt tình, và tôi tính mở miệng trả lời. Nhưng tôi im lặng. Đây không phải là một quyết định dễ dàng gì. Xưa nay ba tôi chỉ ở nhà mình, chỗ duy nhất ổng thấy thoải mái, chỗ duy nhứt hạp với cái đời sống cố hữu đều đặn của ổng. Nếu ổng thấy kinh sợ khi vô nhà thương thì ở mấy viện điều dưỡng như vậy chắc ổng chết sớm quá. Câu hỏi chính không phải là ổng chết khi nào mà là chết ra sao. Chết một mình ở nhà trên giường với ra nệm hoen ố hay với cái bao tử trống rổng? Hay là với những người chăm sóc ổng kĩ lưỡng nhưng ở một nơi chốn xa lạ đáng sợ.
Tôi run giọng không cầm được và hỏi,”chỗ đó ở đâu vậy?”
Trong hai tuần kế tiếp tôi ở nhà chăm sóc ba tôi chu đáo. Tôi nấu nướng nghiêm chỉnh cho ổng hàng ngày, đọc cho ổng nghe mấy tờ Greysheet khi ổng thức. Đêm nào ổng cũng đái dầm làm tôi phải mua tả lót cho ổng mặc dù ổng thấy xấu hổ khi phải mang vô. Chiều nào ổng cũng ngủ li bì. Trong khi ổng ngủ thì tôi đi thăm mấy viện điều dưỡng, không phải chỉ mỗi cái chỗ bà láng giềng chỉ mà nhiều chỗ khác trong vòng bán kính hai giờ lái xe. Cuối cùng, bà láng giềng nói vậy mà đúng. Chỗ bà giới thiệu sạch sẽ, nhân việc lành nghề, nhưng quan trọng nhất là ông giám đốc, cá nhân ổng dường như hiếu kỳ muốn theo dõi trường hợp của ba tôi. Không biết là vì bà láng giềng nói vô hay là vì ổng là bạn của ông bác sĩ của ba tôi. Tôi không bao giờ biết được.
Tiền bạc không là vấn đề. Mấy viện điều dưỡng này thì mắc tiền, nhưng bởi vì ba tôi có tiền hưu của chính phủ, tiền an sinh xã hội, bảo hiểm y tế, và thêm bảo hiểm cá nhân nữa (tôi có thể tưởng tượng ra là ông nghe lời mấy tên bán bảo hiểm dạo ký đại mấy cái hợp đồng mà không biết nó là cái giống gì) nên tôi không phải bỏ thêm tiền túi. Ông giám đốc – cỡ bốn mươi mấy và tóc nâu, cách nói chuyện nhẹ nhàng làm tôi liên tưởng tới Tim – thông cảm và không ép tôi phải quyết định liền. Thay vào đó ổng đưa tôi một đống giấy tờ và đơn từ và chúc ba tôi mọi điều tốt đẹp.
Tối đó tôi đem chuyện viện điều dưỡng ra nói với ba tôi. Còn mấy ngày nữa là hết phép, dù muốn dù không tôi cũng phải bàn với ba tôi. Ổng ngồi im lặng nghe tôi nói. Tôi cắt nghĩa lý do tại sao, những lo lắng của tôi, và hi vọng ổng thông cảm. Ổng không hỏi han gì, nhưng mắt ổng mở lớn kinh hoàng, làm như là nghe lời phán xử tử vậy.
Khi nói xong tôi muốn có một khoảnh khoắc riêng một mịnh Tôi bước lại vỗ nhẹ lên chân ba tôi rồi xuống nhà bếp uống li nước. Khi tôi lên lại phòng khách, ba tôi ngồi khom lưng trên ghế, ủ rũ và rung mình. Đây là lần đầu tiên tôi thấy ba tôi khóc.
Sáng hôm sau, tôi bắt đầu thu dọn đồ đạc cho ba tôi. Tôi coi qua mấy hộc bàn và giấy tờ, tủ chén và tủ quần áo. Trong hộc vớ tôi thấy vớ, trong ngăn đựng áo tôi thấy áo. Trong hộc giấy tờ, mọi thứ đều sắp xếp ngăn nắp. Như vậy thì đâu có gì đáng ngạc nhiên, nhưng thiệt ra thì như vậy mới là đáng ngạc nhiên. Là vì ba tôi, không như mọi người khác trên đời, không có gì bí mật cả. Ông không có những đam mê thầm kín, không có nhật ký, không có thú vui đáng xấu hổ, không có một cái hộp đưng những đồ lưu niệm bí mật vân vân và vân vân. Tôi không tìm thấy món gì để giúp tôi hiểu thêm về đời sống nội tâm của ông, hay giúp tôi hiểu ổng thêm sau khi ổng chết. Ba tôi, lúc nào cũng vậy, từ xưa đến giờ, và tự dưng tôi thấy phục ổng về chuyện này quá xá.
Khi tôi thu xếp xong đồ của ba tôi thì ổng thức dậy. Sau mấy ngày ăn uống đều đặn ông có lại được chút sức lực. Cặp mắt ổng có chút sinh lực, và tôi để ý thấy có cái xẻng để dựa vô cuối bàn. Ba tôi chia ra một miếng giấy vẽ nghệch ngoạc một tấm bản đồ đề “SAU VƯỜN”.
“Giấy gì vậy ba?”
“Ba để cho con,” ông nói, đưa tay chỉ cái xẻng.
Tôi cầm cái xẻng, theo tấm bản đồ đi ra sau vườn, tới gốc cây sồi bước ba bước xong bắt đầu đào. Mới một chút xíu là cái xẻng đụng sắt, tôi lôi ra một thùng. Xong thêm một thùng nữa ở dưới. Xong thêm một thùng nữa bên cạnh. Cả thảy mười sáu thùng. Tôi ngồi xuống trên hiên nhà, đưa tay lau mồ hôi mặt trước khi mở thùng thứ nhất.
Tôi đã đoán biết mấy thùng này đựng thứ gì rồi, và lác mắt trước mấy đồng tiền vàng lóng lánh dưới ánh nắng mùa hè miền nam. Ở dưới đáy thùng tôi thấy đồng tiền kẽm con bò 1926-D, đồng tiền mà hai cha con đã chung nhau tìm và mua được, đồng tiền duy nhứt có chút ý nghĩa đối với tôi.
Ngày kế tiếp là ngày phép cuối, tôi lo thu xếp nhà cửa, cắt điện nước, báo bưu điện chuyển thư, mướn người cắt cỏ vườn, mướn cái két trong nhà băng để chứa mấy thùng tiền cắc. Nội mấy chuyện này mà tốn gần cả ngày trời. Xong tôi nấu cơm chiều, hai cha con ăn chung bữa ăn với súp gà và rau trái luộc trước khi tôi chở ba tôi vô nhà điều dưỡng. Tới nơi tôi dọn đồ của ba tôi ra, chưng bày đồ đạc này nọ trong phòng một chút theo cái kiểu tôi nghĩ là ổng thích, và để dưới đất bên cạnh giường một chồng cả trăm cuốn Greysheets. Nhưng làm như chưa đủ, nên sau khi cắt nghĩa cho ông giám đốc hay, tôi về lại nhà lấy thêm một mới đồ lặt vặt nữa, trong bụng thầm ước là giá gì tôi hiểu ba tôi hơn để biết cái gì là quan trọng đối với ổng.
Tôi có trấn an tới cỡ nào thì ba tôi cũng vẫn cứng đơ người vì sợ hãi, tôi nhìn vô mắt ổng mà đứt ruột. Nhiều lần tôi cứ lo trong bụng là làm như vầy không biết có phải là tôi đang giết ba tôi. Tôi ngồi trên giường bên cạnh ổng, biết là chỉ còn có vài giờ nữa là tôi phải ra phi trường.
“Ba đừng lo, mọi chuyện sẽ đâu vào đó,” tôi nói. “Ở đây người sẽ lo lắng chăm sóc cho ba đầy đủ.”
Hai tay ba tôi tiếp tục rung rung. “Ừ,” ông nói giọng yếu xìu.
Tôi cảm thấy nước mắt mình sắp trào ra. “Con muốn nói với ba một chuyện.” Tôi hít một hơi dài, tập trung tư tuởng. “Con muốn nói cho ba biết là, con nghĩ ba là một người cha vĩ đại nhứt thế gian này. Có vậy ba mới chịu được với một thằng con cà chớn như con.”
Ba tôi không trả lời. Trong im lặng tôi thấy những điều mà tôi hằng muốn nói với ba tôi hiện ra trong đầu, những điều mà tôi ấp ủ lâu nay.
“Con nói thiệt lòng. Là con xin ba tha lỗi cho con về những lỗi lầm của con xưa nay, và về chuyện con không ở gần ba để săn sóc ba được. Ba là người tốt nhứt, hơn hết mọi người con biết trên đời này. Ba không bao giờ nổi nóng với con, không bao giờ phê phán con, và ba đã dạy con rất nhiều điều về cuộc đời này, nhiều hơn là con từng muốn học. Con xin lỗi ba là con không ở gần ba được trong lúc này, và con cũng tự phỉ nhổ mình về chuyện nhà điều dưỡng này. Nhưng ba biết không, con cũng lo sợ và không biết làm gì khác hơn.”
Giọng nói tôi nghe khàn ra và lộn xộn trong tai tôi, và tôi không muốn gì hơn là được ba tôi đưa tay quàng vai.
“Ba biết mà,” cuối cùng ổng mở miệng.
Tôi mỉm cười vì ba tôi trả lời, rán mà không kiềm được.
“Ba, con thương ba lắm.”
Câu này thì ba tôi biết cách trả lời liền, vì nó là một phần của những chuyện ba tôi làm hàng ngày.
“Ba cũng thương con, John”
Tôi ôm ba tôi, xong đứng dậy và lấy tờ Greysheet mới nhất đưa cho ổng. Khi ra tới cửa, tôi ngừng lại, quay nhìn ba tôi thêm lần nưa.
Lần đầu tiên kể từ lúc lại đây tôi không vẻ lo sợ trên mặt ông. Ba tôi cầm tờ báo sát mặt, tôi có thể nhìn thấy tờ báo rung rung. Môi ổng nhúc nhích vì ổng tập trung vô mấy hàng chữ, và tôi ráng nhìn khuôn mặt ông thiệt kỹ, hi vọng là sẽ đủ để nhớ suốt đời. Đó là lần sau cùng tôi nhìn ba tôi còn sống.
Nguyễn Sĩ Hạnh phỏng dịch
0 Bình luận