Chương 19. Hàn Huyên
phỏng dịch truyện Dear John của Nicholas Sparks
Nhà bếp nhỏ, hạp với kiểu nhà cũ cả trăm năm nay và đã được sửa đi sửa lại cả chục lần, sàn nhà trải thảm kiểu cổ hơi bong lên gần tường ; tủ chén cũ chồng chất mấy lớp sơn đi sơn lại, cái bồn rửa chén bằng inox dưới cạnh cửa sổ đúng ra là nên được thay mấy năm trước. Mặt bàn nhà bếp thì nứt nẻ, dựa vô một phía tường là cái lò nướng đốt củi, chắc cũ gần bằng ngôi nhà. Cũng có mấy món hiện đại, như cái tủ lạnh lớn và cái máy rửa chén gần bồn rửa chén, ở một góc là cái lò microwave kế bên một chai rươu đỏ lưng nửa. Nhìn sơ qua tôi thấy nhớ tới nhà ba tôi.
Savannah mở tủ chén và lấy ra môt cái ly. “Anh uống một li rươu đỏ nhen?”
Tôi lắc đầu. “Anh không quen uống rượu vang.”
Tôi ngạc nhiên thấy nàng không cất cái li lại mà đưa tay lấy chai rượu lỡ và rót một li. Nàng để li rượu trên bàn và ngồi xuống. Tôi cũng ngồi xuống trong lúc Savannah nâng li uống một ngụm rượu.
“Em thay đổi nhiều,” tôi nhận xét.
Nàng nhún vai.” Đã có rất nhiều thay đổi kể từ lần sau cùng em gặp anh.”
Nàng không nói gì thêm và để li rượu xuống bàn. Khi nàng tiếp tục, giọng nàng chùng xuống. “Em không nghĩ em là loại người tới cuối ngày là cần một li rượu đỏ, nhưng em giờ là vậy.”
Nàng xoay xoay cái li rượu, tôi thắc mắc trong bụng không biết lâu nay có chuyện gì xảy ra cho nàng không.
“Anh biết không? nàng nói. “Điều buồn cười là em rất là chọn lựa. Khi mới bắt đầu thì em uống đại không phân biệt ngon dở gì hết. Nhưng bây giờ khi đi mua rượu em lựa rất kĩ.”
Thật tình tôi không hiểu được người đàn bà ngồi trước mặt mình nên không biết trả lời ra sao.
“Đừng hiểu lầm em,” nàng tiếp tục. “Em vẫn còn nhớ lời ba má dạy, và ít khi nào em uống quá một li. Nhưng chúa Jesus từng biến nước thành rượu, thì em nghĩ uống lai rai cũng không là cái tội.”
Tôi mỉm cười về cái lí luận của nàng, nhận ra là cũng không công bằng nếu cứ nghĩ là nàng cũng còn giống y như hồi trước.
“Anh đâu có thắc mắc gì đâu.”
“Em biết,” nàng nói. “Không nói ra nhưng anh thắc mắc trong đầu.”
Trong một khoảng khắc trong nhà bếp chỉ có tiềng rù rì của cái máy lạnh. “Em thành thật chia buồn về ba anh.” Nàng đưa ngón tay vuốt theo một vết nứt trên bàn. “Mấy năm qua em suy nghĩ rất nhiều về ba anh.”
“Cám ơn em,” tôi nói.
Savannah lại xoay xoay li rượu, dường như đầu óc nàng chìm theo rượu quay tròn trong li. “Anh kể cho em nghe chuyện ba anh đi.” Nàng nói.
Tôi không chắc là mình muốn kể lại, nhưng khi tôi dựa lưng vô ghế, chữ nghĩa tuôn ra sao dễ dàng quá. Tôi kể cho nàng nghe về vụ lên cơn tim lần đầu, và lần thứ nhì, và những lần tôi về phép thăm ba tôi trong hai năm qua. Tôi kể cho nàng nghe về cái tình cha con càng ngày càng lớn mạnh, và tôi cảm thấy thoải mái khi về ở gần bên ba tôi, về những lần đi bộ hàng ngày của ba tôi và cuối cùng là đi không nổi nữa. Tôi nhắc lại những ngày sau cùng giữa hai cha con và nỗi đứt ruột khi phải gởi ổng vô nhà điều dưỡng. Khi tôi kể tới đám tang, và tấm hình của hai cha con, nàng đưa tay nắm lấy tay tôi.
“Em mừng là ba anh để dành tấm hình cho anh,” nàng nói. “Nhưng em không ngạc nhiên tí nào.”
“Anh thì ngạc nhiên,” tôi nói, và nàng cười. Giọng cười nàng làm tôi yên tâm.
Nàng bóp nhẹ tay tôi. “Em không biết, chớ biết thế nào em cũng lại đưa ba anh đi.”
“Đám tang đơn giản lắm.”
“Đâu có sao đâu. Chuyện chính là em lại thăm ba anh.”
Nàng ngần ngừ trước khi thả tay tôi ra và uống một hớp rượu nữa.
“Anh đói bụng chưa?” Nàng hỏi.
“Anh cũng không biết nữa,” tôi nói, ráng gạt mấy câu nàng nói lúc nãy ra khỏi đầu.
Nàng chồm tới, nhăn răng cười. “Kệ, để em hâm một ít thịt hầm xem sao.”
“Ngon không vậy?” Tôi hỏi. “Ý anh muốn nói là hồi xưa đâu có bao giờ nghe em nói chuyện nấu nướng gì đâu.”
“Đây là công thức gia truyền,” nàng nói, giả bộ như là tự ái bị tổn thương. “Nhưng nói thiệt là của má em nấu. Má đem qua hôm qua.”
“Sự thật lòi ra,” tôi nói.
“Ừa, sự thật thường mắc cười là vậy.” Nàng đứng dậy mở cửa tủ lạnh, khom người xuống liếc qua mấy ngăn tủ lạnh. Tôi thắc mắc về cái nhẫn cưới nàng đeo, và ông chồng của nàng ở đâu, trong khi nàng lôi ra một cái hộp nhựa loại Tupperware. Nàng múc mấy muổng thịt hầm vô một cái tô xong bỏ vô microwave hâm nóng.
“Anh muốn ăn thêm gì với thịt hầm? Bánh mì với bơ nhen?
“Vậy là ngon rồi.” Tôi đồng ý.
Chỉ mấy phút sau là bữa ăn dọn ra đầy đủ trước mặt tôi, mùi thơm làm tôi lần đầu tiên cảm thấy bụng đói cồn cào, Savannah ngồi xuống ghế, tay cầm li rượu.
“Bộ em không ăn sao?”
“Em không thấy đói,” nàng nói. “Thiệt ra lúc sau này em ít ăn lắm. Nàng hớp một ngụm rượu khi tôi bắt đầu ăn, và tôi bỏ qua không để ý tới lời nàng nói.
“Em nói đúng,” tôi nói. “Đồ ăn ngon thiệt.”
Nàng mỉm cười. “Má nấu ăn rất rành.Đúng ra là em nên học má nhiều hơn về chuyện nấu nướng này. Nhưng em lúc nào cũng bận. Hồi trẻ thì lo học, rồi sau này thì lo chuyện sửa nhà.” Nàng hất đầu về phía phòng khách. “Nhà thì cũ. Nhìn không thấy gì nhưng tụi em đã sửa chữa rất nhiều trong hai năm qua mới được như vầy.”
‘Nhà nhìn thấy đẹp chớ.”
“Cám ơn anh, nhưng em biết là lịch sự mà anh khen vậy thôi,” nàng trả lời. “Anh phải thấy hồi em mới dọn vô thì mới biết. Nhà như cái chuồng ngựa vậy. Nhà cần mái mới, nhưng mắc cười là không ai nghĩ tới mái nhà khi tính chuyện sửa nhà. Nhà nào cũng có mái, nhưng không ai nghĩ tới chuyện một ngày nào đó cần phải thay mái. Hầu như chuyện nào tụi em làm cũng như vậy hết. Lò sưởi, cửa sổ chống lạnh, những chỗ bị mối ăn … làm hoài không hết.” Mặt nàng mơ màng. “Hầu hết là tụi em tự làm. Như cái nhà bếp này chẳng hạn. Em biết là mấy ngăn tủ chén và sàn nhà cần thay đồ mới, nhưng khi mới dọn vô mỗi lần mưa là dột nhà, nước đọng thành vũng trong phòng khách và phòng ngủ. Biết làm sao bây giờ? Thành ra sắp ưu tiên thứ tự, và chuyện đầu tiên là thay mái nhà. Nắng nóng bốn năm chục độ mà em leo lên trên nóc nhà dùng xẻng cạy mấy miếng ngói cũ, tay sướt đủ chỗ. Nhưng trong bụng lại … thấy vui, anh biết không? Thì hai người trẻ tuổi bắt đầu cuộc sống chung với nhau, chung vai cật lực sửa chữa căn nhà gia đình. Nghe qua có cái cảm giác “tuy hai mà một” vô cùng. Cũng cái cảm giác như vậy khi làm tới sàn nhà trong phòng khách. Cả hai tuần lễ để chà láng cho bằng phẳng trở lại. Xong tụi em mới đánh vẹc ni, rồi phủ một lớp bóng lên trên, cuối cùng khi xong xuôi hết, bước qua bước lại trên sàn nhà mà cảm thấy như là mới xây xong cái nền móng cho cả cuộc đời của mình vậy.
“Em nói nghe thơ mộng quá cỡ.”
“Thì đúng như vậy, từ một góc nhìn nào đó,” nàng đồng ý. Nàng đưa tay vén một lọn tóc sau tai. “Nhưng từ từ thì không còn thơ mộng nữa. Và bây giờ thì thấy mệt mỏi.”
Tôi bật cười, rồi ho, xong đưa tay tìm li nước.
Nàng đứng dậy. “Để em rót nước cho anh,” nàng nói. Nàng rót một li nước đầy từ bình và để trước mặt tôi. Tôi uống và cảm thấy là nàng nhìn tôi.
“Chuyện gì vậy?” tôi hỏi.
“Em vẫn không tin được là anh nhìn thấy khác quá.”
“Anh?” tôi không tin được lời nàng nói.
‘Đúng vậy,” nàng tiếp tục. “Anh nhìn thấy … già dặn hơn.”
“Thì anh già theo tuổi.”
“Em biết, nhưng không phải vậy. Đôi mắt anh. Nhìn thấy nghiêm trọng không như là hồi trước. Làm như là anh đã nhìn thấy nhiều chuyện quá. Thấy mỏi mệt sao sao đó.”
Tôi nghe nhưng không nói gì, nhưng khi nhìn thấy mặt tôi thì nàng lắc đầu, bối rối. “Đúng ra em không nên nói như vậy. Em đâu có biết đời sống anh ra sao mấy năm nay.”
Tôi cắn thêm một miếng thịt hầm nữa, nghĩ về những gì nàng nói. “Thực ra anh rời Iraq hồi đầu năm 2004,” tôi nói. “Từ đó tới giờ anh chỉ đóng ở Đức. Lính đóng ở Iraq không nhiều, và thay phiên nhau. Có lẽ sẽ tới phiên anh trở lại, nhưng chưa biết lúc nào. Hi vong tới lúc đó thì tình hình đã yên ổn rồi.”
“Em tưởng là anh đã giải ngũ rồi.”
“Anh xin gia hạn,” tôi nói. “Đâu có lí do gì để xuất ngũ đâu.”
Cả hai đều biết lí do tại sao, và nàng nhún vai. “Cho tới lúc nào thì xong?”
“Tới 2007 thì mới mãn hạn.”
“Xong anh sẽ làm gì?”
“Anh cũng không chắc. Có thể anh xin gia hạn thêm vài năm nữa. Hay có thể anh xin vô đại học. Ai mà biết được – biết đâu anh lại lấy được cái bằng cử nhân về giáo dục đặc biệt không biết chừng. Anh nghe nói ngành này hay lắm.”
Nàng cười buồn bã một cách lạ lùng, và hai đứa im lặng một chặp. “Em lập gia đình bao lâu rồi?” tôi hỏi.
Nàng đổi thế ngồi. “Tới tháng 11 này là hai năm.”
“Đám cưới tổ chức ở đây?”
“Làm như là em có lựa chọn nào khác.” Nàng trợn tròn mắt.
“Má em lo hết mọi chuyện. Em biết em là con một, nhưng chuyện qua rồi nhìn lại mới thấy là nếu tổ chức nhỏ lại thì em sẽ thấy vui hơn. Chừng một trăm người khách là vừa rồi.”
“Vậy mà em gọi là nhỏ?”
“So với đám cưới của em thì như vậy là nhỏ. Trong nhà thờ không đủ chỗ ngồi cho mọi người, và ba em cứ than là kiểu này ổng sẽ phải trả nợ suốt đời. Dĩ nhiên là ba nói dỡn. Một nửa khách là bạn của ba má em, nhưng làm đám cưới ở quê nhà thì phải vậy chớ biết sao hơn. Ai cũng được mời, từ người phát thư tới ông thợ hớt tóc.”
“Nhưng em thích về lại quê nhà mà?”
“Ở đây thì thoải mái. Ba má ở gần bên, cũng đỡ lắm, nhứt là lúc này.”
Nàng cố ý không cắt nghĩa gì thêm. Tôi đứng dậy dọn chén dĩa vô bồn rửa chén, thắc mắc về câu nàng nói – và cả trăm chuyện khác nữa. Sau khi tráng sơ, tôi nghe nàng nói sau lưng.
“Anh cứ để đó. Để chút nữa em bỏ vô máy rửa chén. Anh có muốn ăn gì nữa không? Má em để lại mấy cái bánh pie.”
“Cho anh xin li sữa” Tôi nói. Khi nàng dợm người đứng dậy thì tôi nói thêm “Chỉ cho anh chỗ để ly, anh tự lấy cũng được.”
“Li ở trong ngăn tủ gần bồn rửa chén.”
Tôi lấy cái li và đi lại chỗ tủ lạnh. Sữa ở ngăn trên cùng, còn mấy ngăn dưới là cả tá hộp nhựa Tuppewrware đựng đồ ăn đông lạnh. Tôi rót sửa vô li rồi quay lại bàn.
“Có chuyện gì vậy, Savannah?”
Nàng hỏi ngược lại. “Ý anh hỏi chuyện gì là chuyện gì?”
“Chồng em,” tôi nói.
“Anh muốn hỏi chuyện gì về ổng?”
“Chừng nào mới giới thiệu cho anh biết mặt?”
Thay vì trả lời, Savannah đứng dậy tay cầm li rượu. Nàng đổ rượu thừa còn lại xuống bồn rửa chén, xong lấy một hộp cà phê và một hộp trà.
“Anh gặp ổng rồi,” nàng nói, quay người lại thẳng vai. “Chồng em là Tim.”
Tôi nghe tiếng muỗng khua đụng ly khi Savannah ngồi lại xuống ghế đối diện tôi.
“Anh muốn nghe chi tiết tới cỡ nào?” nàng lẩm bẩm, mắt nhìn chăm chăm xuống chén trà.
“Hết mọi chuyện,” tôi nói, dựa vô ghế. “Hay là thôi không nói chuyện này nữa. Anh cũng không chắc mình muốn gì.”
Nàng hịt mũi. “Em cũng đoán vậy.”
Tôi nắm hai tay mình lại với nhau. “Chuyện bắt đầu từ hồi nào vậy?”
“Em cũng không biết,” nàng nói. “Nghe thì có vẻ kì cục, nhưng mọi chuyện có lẽ không phải như anh nghĩ đâu. Không phải là tụi em dự tính như vậy đâu.” Nàng để cái muổng xuống bàn. “Nhưng để trả lời anh, em nghĩ là bắt đầu đâu từ hồi đầu năm 2002.”
Tôi nhẩm ra, như vậy là đâu vài tháng sau khi tôi gia hạn. Sáu tháng trước khi ba tôi lên cơn tim lần đầu và cỡ tôi để ý là thư nàng thưa lần.
“Anh biết là tụi em là bạn từ nhỏ. Mặc dù Tim học cao học nhưng vào năm cuối có mấy môn em học chung lớp với ảnh, rồi sau giờ học đôi khi tụi em đi uống cà phê hay học chung. Không phải là hò hẹn gì, hay ngay cả chuyện nắm tay. Tim biết là em thương anh… nhưng mà ảnh ở gần bên em. Anh lắng nghe khi em tâm sự chuyện hai đứa mình, và chuyện xa nhau sao thấy cực khổ quá. Mà khổ thiệt. Em cứ nghĩ là tới lúc đó thì anh đã hết hạn và về nhà rồi.”
Khi nàng nhìn lên, đôi mắt nàng đầy … với thứ gì thì tôi không rõ, có thể là tiếc nuối?
“Dù sao đi nữa, tụi em ở gần bên nhau, và Tim rất tốt khi an ủi em khi nào em xuống tinh thần. Lúc nào ảnh cũng nhắc em khi anh sắp về phép, và làm sao mà diễn tả cho được là lòng em muốn gặp lại anh tới độ nào. Rồi ba anh bị bịnh. Em biết là anh phải về thăm ba anh – em sẽ không bao giờ tha thứ anh nếu như anh không chịu về thăm bệnh ba anh – nhưng như vậy lại kẹt cho hai đứa mình. Nghe thì thấy ích kỉ quá, và em tự ghét mình với suy nghĩ này. Làm như là định mệnh muốn chia cách hai đứa mình vậy.”
Nàng cầm cái muổng lên và khuấy li trà lần nữa, tập trung tư tưởng.
“Mùa thu năm đó, ngay sau khi học hành xong xuôi hết, em quay về quê nhà và làm ở một trung tâm thẩm định ở dưới phố, thì ba má Tim gặp tai nạn thảm khốc. Hai ông bà lái xe về từ Asheville, lạc tay lái và lạng qua bên ngược chiều tông vô một chiếc xe tải. Tài xế xe tải không sao nhưng ba má Tim chết liền tại chỗ. Tim phải bỏ dở chuyện học – Tim đang ráng trình cái luận án tiến sĩ – về quê để lo cho Alan.”
Nàng ngưng lại.
“Thật là thảm não cho Tim. Không những chỉ buồn về ba má chết đột ngột mà còn Alan nữa. Nó la hét suốt ngày và bắt đầu nắm tóc giựt ra. Chỉ có Tim là có thể làm cho Alan đừng tự hành hạ mình như vậy. Nhưng chỉ lo cho Alan là Tim đã hết sức rồi. Em nhớ đại khái là đó là lúc em bắt đầu qua đây phụ giúp Tim.”
Khi tôi cau mày, nàng nói thêm, “Đây là nhà của ba má Tim, nơi Tim và Alan sinh ra và lớn lên.”
Mới nghe nàng nói là tôi nhớ ra liền. Dĩ nhiên đây là nhà Tim – có lần nàng kể cho tôi nghe là nhà Tim gần bên nhà nàng.
“Thành ra tụi em an ủi lẫn nhau. Em ráng giúp Tim, Tim ráng giúp em, và cả hai ráng giúp Alan. Từ từ, em đoán, là tụi em thương nhau.”
Nàng nhìn thẳng vô mắt tôi, lần đầu tiên.
“Em biết là anh muốn nổi giận với Tim hay với em. Hay cả hai. Và em đoán là cũng đáng đời tụi em. Nhưng anh đâu hiểu được tình cảnh hồi đó. Nhiều chuyện xảy ra dồn dập – trong lòng lúc nào cũng dao động. Em cảm thấy có lỗi, Tim cũng vậy. Nhưng sau một thời gian thì đâu vào đó. Tim bắt đầu làm việc cùng chỗ với em, và quyết định là sẽ bắt đầu cái chương trình ở nông trại cho trẻ em bị autistic. Ba má Tim cũng muốn ảnh làm, cho nên em cũng tham gia luôn. Thành ra ngày nào tụi em cũng ở gần bên nhau. Có cái chương trình cuối tuần làm cho tụi em có mục đích để hướng tới, và cũng giúp Alan nữa. Nó thích ngựa, và có nhiều chuyện để làm nên từ từ nó quen với chuyện không có ba má chăm sóc nữa. Làm như tụi em tựa vào nhau để mà sống… Tim ngỏ lời cầu hôn cuối năm đó.
Khi nàng ngưng nói, tôi quay qua hướng khác, ráng hiểu thấm cho hết những lời nàng kể. Hai đứa tôi ngồi im lặng một chặp, mỗi người rán vật lộn với những suy nghĩ riêng của mình.
“Chuyện là vậy.” Nàng kết luận. “Em không biết là anh còn muốn nghe thêm gì nữa.”
Tôi cũng không chắc nữa.
“Alan vẫn còn ở đây?” Tôi hỏi.
“Nó ở trên lầu. Thiệt ra là cũng là một phòng một xưa nay. Nghe thì thấy vất vả nhưng sự thật thì cũng không đế nỗi nào. Sau khi cho ngựa ăn và vuốt ve ngựa này nọ thì nó chui vô phòng một mình suốt ngày. Nó thích video games, chơi cả buổi. Lúc sau này em biểu mà nó không chịu ngừng. Nếu mà không nói thì nó dám chơi suốt đêm không ngủ.”
“Alan có ở nhà không?”
Nàng lắc đầu. “Không,” nàng nói. “Hiện giờ nó đang theo Tim.”
“Ở đâu vậy?”
Trước khi nàng kịp trả lời thì có tiếng chó cào vô cửa trước liên tục, Savannah phải đứng dậy ra mở cửa. Con chó chen vô, lưỡi lè ra và đuôi quắc qua quắc lại. Nó đi lại gần tôi và dí mũi vô tay tôi.
“Con chó này coi bộ thích anh,” tôi nói.
Savannah vẫn còn đứng gần cửa. “Ai nó lại không thích. Tên nó là Molly. Coi nhà thì không được chuyện gì nhưng mà dễ thương. Anh rán tránh nước dãi của nó, chớ không thì tùm lum cả người bây giờ.”
Tôi nhìn xuống quần jean của mình. “Em nói đúng thiệt.”
Savannah lắc người ra dấu. “Em mới nhớ là có mấy thứ em phải dọn vô. Tối nay có thể có mưa. Chút xíu là xong liền.”
Tôi để ý là nàng chưa trả lời câu hỏi của tôi về Tim, và nhận ra là nàng tránh không muốn trả lời.
“Em có cần phụ gì không?”
“Không cần. Nhưng anh muốn phụ thì theo em. Trời đêm nay trăng đẹp quá.”
Tôi theo nàng đi ra ngoài sân, và Molly đi tà tà theo, quên bẵng là nó vừa mới nằng nặc đòi vô nhà. Khi một con chim cú bay vụt lên từ một ngọn cây, con Molly phóng vào bóng đêm và mất dạng. Savannah mang giày boot vô lại.
Hai đứa tôi đi về hướng chuồng ngựa. Tôi nghĩ về những lời nàng kể và lại thắc mắc là tôi lại đây làm chi không biết nữa. Tôi không chắc là mình vui hay buồn về việc nàng lấy Tim – vì hai người coi bộ xứng đôi vừa lứa quá cỡ. Tôi cũng thỏa mãn trong bụng là đã biết hết sự thật; nhưng tôi khám phá ra là hình như không biết gì hết thì coi bộ khỏe cái đầu hơn. Tự nhiên tôi thấy mệt trong người.
Tuy nhiên hình như có nàng còn dấu tôi điều gì đó. Tôi nghe trong giọng nói nàng cái buồn bàng bạc triền miên. Bóng tối bao trùm chung quanh, tôi giựt mình thấy hai đứa đi sát bên nhau, tôi không biết là nàng có cảm thấy như vậy không, vì không thấy nàng biểu lộ điều gì.
Mấy con ngựa chỉ còn là những bóng mờ méo mó xa xa. Savannah lấy vài dây cương đem vô chuồng ngựa, treo lên mấy cái móc. Tôi thì dọn mấy cái xẻng đem vô dựa bên cạnh mấy dụng cụ khác. Xong xuôi cả hai bước ra sân, nàng đóng cửa chuồng ngựa lại kĩ lưỡng.
Liếc qua đồng hồ tôi thấy đã gần mười giờ. Trời khuya rồi, cả hai đứa tôi đều cảm thấy như vậy.
“Thôi để anh về,” tôi nói. “Phố nhỏ, sợ thiên hạ dị nghị.”
“Có lẽ anh nói đúng.” Molly đột nhiên xuất hiện lẩn quẩn rồi ngồi giữa hai đứa. Khi nó le lưỡi liếm chân Savannah, nàng bước qua một bên. “Anh trọ chỗ nào vậy?” nàng hỏi. “Ở cái nhà trọ nhỏ gần đây, kế bên highway.”
Nàng hỉnh mũi lên “Em biết chỗ đó rồi.”
“Chỗ lê la của mấy tên cốt đột,” tôi thú thiệt.
Nàng mỉm cười. “Đâu có gì phải ngạc nhiên. Anh luôn luôn có cái cách tìm ra những chỗ độc đáo.”
“Như nhà hàng Shrimp Shack?”
“Đúng vậy chớ còn gì nữa.”
Tôi thọc tay vô túi quần, thắc mắc không biết đây có phải là lần sau cùng tôi gặp nàng. Nếu như vậy thì coi bộ không hợp tình hợp cảnh tí nào. Tôi đâu có muốn chia tay với mấy câu nói khơi khơi như vầy nhưng không biết nói gì hơn.
Ngoài đường trước nhà, một chiếc xe chạy ngang pha đèn sáng rực cả nhà.
“Vậy thôi, anh đi đây,” tôi nói, một chút mất mát trong lòng. “Rất vui khi gặp lại em.”
“Em cũng vậy, mừng là anh ghé lại thăm em.”
Tôi gật đầu lần nữa. Nàng nhìn đi chỗ khác, tôi đoán là nàng ra dấu là đã đến lúc chia tay.
“Anh đi đây,” tôi nói.
“Ừ anh đi.”
Tôi quay người, bước từ hiên nhà ra xe, người còn choáng váng vì cái ý nghĩ là mọi chuyện giữa tôi và nàng kể như hết sạch từ đây. Tôi không hi vọng gì, nhưng thực tế phủ phàng của cái vụ kết thúc một cuộc tình này làm sống lại trong tôi những cảm xúc mà tôi ráng đè nén trong lòng mấy năm nay kể từ lúc tôi đọc lá thư vĩnh biệt của nàng. Tôi mở cửa xe thì nghe tiếng nàng kêu với theo.
“Anh, anh John?”
“Có chuyện gì vậy?”
Nàng bước xuống thềm nhà và hướng về phía tôi.
“Anh còn ở lại đây ngày mai không?”
Nàng bước lại gần tôi, nửa khuôn mặt chìm trong bóng tối, tôi biết chắc bẩm trong bụng là tôi vẫn còn thương nàng. Mặc dù lá thư vĩnh biệt, mặc dù nàng đã có chồng. Mặc dù sự thiệt trần trần ra đó là hai đứa tôi đường ai nấy đi. “Có chuyện gì không?”
“Em không biết là anh có muốn ghé lại. Vào cỡ chừng mười giờ sáng. Em biết chắc là Tim muốn gặp anh…”
Tôi lắc đầu, ngay cả trước khi nàng nói hết câu. “Anh không chắc là anh nên gặp Tim -”
“Xin anh vì em”
Tôi biết là nàng muốn tôi gặp Tim, để thấy là Tim vẫn là Tim như mấy năm về trước, và trong một chừng mực nào đó, tôi biết là nàng muốn tôi gặp Tim vì nàng mong tôi tha thứ. Nhưng …
Nàng đưa tay nắm lấy tay tôi. “Em năn nỉ anh. Chuyện này rất là quan trọng cho em.”
Mặc dù hai bàn tay nàng ấm áp, trong bụng tôi cũng không muốn trở lại. Tôi không muốn gặp lại Tim. Tôi không muốn nhìn thấy hai người bên nhau hay ngồi vòng quanh bàn ăn làm như là trên đời mọi chuyện đều tốt đẹp. Nhưng lời năn nỉ của nàng nghe rầu rĩ quá làm tôi không cách gì từ chối được.
“Được rồi,” tôi nói. “Mười giờ sáng mai.”
“Cám ơn anh.”
Xong nàng quay người lại. Trước khi vô xe tôi đứng một chỗ, nhìn nàng bước lên hiên nhà. Tôi mở máy, de xe ra. Savannah đứng trong hiên nhà quay người ra đưa tay vẫy theo. Tôi vẫy tay lại, xong lái ra đường, hình bóng nàng nhỏ dần trong gương chiếu hậu. Nhìn nàng, thình lình cổ họng tôi khô lại. Không phải vì nàng đã lấy Tim, và cũng không phải vì cái viễn tượng sẽ gặp cả hai ngày mai. Mà là vì cái hình ảnh của Savannah đứng trong hiên nhà, hai tay ôm mặt khóc ròng.
Nguyễn Sĩ Hạnh phỏng dịch
0 Bình luận