Chương 20.1 Thăm Bệnh
phỏng dịch truyện Dear John của Nicholas Sparks
Sáng hôm sau, Savannah đứng chờ sẵn trứơc thềm nhà, và đưa tay vẫy khi tôi tấp vô. Tôi vừa ngừng xe lại thì nàng bước tới. Trong bụng tôi nghĩ là Tim sẽ từ trong nhà bước ra theo sau nàng, nhưng mà không thấy anh chàng đâu hết.
“Hey,” nàng nói, đưa tay chạm vô cánh tay tôi. “Cám ơn anh đã lại.”
“Đâu có gì đâu,” tôi nói, nhún vai một cách bất đắc dĩ.
Tôi tưởng tượng như là có chút thông cảm trong ánh mắt nàng trước khi nàng hỏi, “Đêm qua anh ngủ ngon không?”
“Cũng tàm tạm.”
Nghe tôi trả lời nàng cười gượng. “Sẵn sàng chưa? mình đi nghe anh.”
“Anh thì lúc nào cũng sẵn sàng.”
“Vậy hả,” nàng nói. “Chờ một chút để em lấy chìa khóa. Trừ phi là anh muốn lái chở em đi.”
Mới nghe tôi không hiểu ý nàng nói gì. “Đi đâu vậy?”. Tôi hất hàm về hướng nhà nàng. “Anh tưởng là anh lại thăm Tim mà.”
“Thì đúng vậy,” nàng nói. “Nhưng ảnh không có ở nhà.”
“Không có ở nhà thì ở đâu vậy?”
Nàng làm như không nghe tôi nói. “Anh có muốn lái xe chở em không?”
“Vậy cũng được,” tôi nói, chả buồn che dấu cái nỗi thắc mắc của mình nhưng đoán là trước sau gì nàng cũng sẽ cắt nghĩa đâu vào đó.
Tôi mở cửa xe cho nàng và bước vòng qua phía tài xế. Savannah rờ tay lên bảng đồng hồ xe, như thể cho chắc ăn đây là xe thiệt.
“Em nhớ xe này rồi.” Giong nàng nghe như luyến tiếc một điều gì đó. “Xe của ba anh phải không? Chu cha, em không ngờ là nó vẫn còn chạy được.”
“Ông già đâu có chạy nhiều,” tôi nói. “Chỉ lái đi làm và đi chợ.”
“Biết là vậy rồi.”
Nàng cài nịt ghế, và dù ráng tôi cũng không tránh được cái thắc mắc là có phải đêm qua nàng ở nhà một mình.
“Đi hướng nào đây?”
“Ra đường xong anh quẹo trái, đi về phía phố.”
Hai đứa không ai nói gì. Nàng thì nhìn ra cửa sổ xe, hai tay khoanh trước ngực. Có lẽ tôi thấy cũng hơi bị coi thường, nhưng khuôn mặt nàng làm cho tôi có cảm tưởng như là nàng đang nghĩ tới chuyện gì đó mà không dính dáng gì tới tôi cả, và tôi để kệ nàng.
Gần tới phố, nàng lắc đầu, làm như giựt mình thấy sao trong xe không ai nói gì cả. “Xin lỗi anh,” nàng nói. “Em hơi bất nhã.”
“Không sao đâu,” tôi nói, ráng biểu lộ chút ít hiếu kì.
Nàng chỉ về phía trước.” Tới đó anh quẹo phải nghen.”
“Mình đi đâu đây?”
Nàng không trả lời liền mà lại quay qua nhìn ra cửa sổ xe.
“Tới bệnh viện.” sau cùng nàng nói.
* * *
Tôi bước theo nàng từ hành lang này qua hành lang khác, sau cùng ngừng lại ở bàn nhận khách vô thăm bệnh, một bà già làm việc tình nguyện ngồi ở đó. Savannah lấy cây viết và kí tên vô sổ tự nhiên.
“Savannah, cô ráng giữ vững tinh thần chớ?”
“Dạ cũng phải ráng.” Savannah trả lời lầm bầm.
“Mọi chuyện rồi cũng đâu vào đó mà. Cả tỉnh lị đều cầu nguyện cho ổng.”
“Cám ơn,” Savannah nói. Nàng trả lại cuốn sổ, rồi nhìn tôi. “Tim ở lầu ba,” nàng cắt nghĩa. “Thang máy ở đàng kia.”
Tôi đi theo nàng, cảm thấy bao tử cồn cào. Vừa tới nơi thì thang máy xuống tới, hai đứa mới bước vô. Khi cửa đóng lại, tôi tưởng như là mình đang ở trong một nấm mộ vậy.
Tới lầu ba, tôi đi theo Savannah dọc theo hành lang. Nàng ngừng laịu trước một phòng có cửa lớn mở hé.
“Để em vô trước,” nàng nói. “Anh chịu khó chờ đây một chút nghen.”
“Ừa.”
Ánh mắt nàng lộ vẻ cám ơn xong quay nhìn hướng khác. Nàng hít một hơi thở dài xong bước vô. “Anh ơi,” tôi nghe nàng nói giọng vui vẻ. “Anh thấy khỏe chớ.”
Tôi không nghe thêm gì nữa trong vài phút sau đó. Thay vào đó tôi đứng giữa hành lang hửi mùi bệnh viện nồng nặc chung quanh, giống như hồi tôi thăm bệnh ba tôi vậy. Không khí đầy đặc mùi thuốc khử trùng, và tôi nhìn theo một dãy xe đẩy đồ ăn thứ tự đi vô một phòng ở cuối hành lang. Đầu này tôi thấy một nhóm y tá tụ lại. Sau cửa một phòng bên kia hành lang tôi nghe tiếng ai đang nôn mửa.
“Được rồi,” Savannah thò đầu ra nói. Ẩn dưới nét mặt tỏ ra can đảm tôi vẫn nhận ra được nỗi buồn của nàng. “Mời anh vô, anh Tim đang chờ.”
Tôi theo nàng bước vô phòng, trong lòng chuẩn bị cho tình huống te tua nhứt.
Tim ngồi trên giường với dây nước biển lòng thòng từ cánh tay. Anh chàng nhìn thấy như không còn sức lực gì, da tái xanh. Anh coi bộ sụt kí còn nhiều hơn là ba tôi hồi đó, và khi nhìn anh ta, trong đầu tôi chỉ nghĩ được tới chuyện là anh ta đang chết mòn chết lần. Chỉ có nét dịu dàng trong ánh mắt là vẫn không thay đổi. Phía bên kia phòng có một cậu con trai – chừng mười tám hai mươi gì đó – cứ lắc đầu qua lắc đầu lại, nhìn tôi biết ngay là Alan. Bông để đầy đặc trong phòng: cả tá bông bó và card để đầy bàn và cạnh cửa sổ. Savannah ngồi trên giường bên cạnh Tim và đưa tay nắm lấy tay chồng.
“Chào anh Tim,” tôi nói.
Tim coi bộ mệt quá cười không nổi nhưng cũng rán. “Chào John, rất vui khi gặp lại anh.”
“Tôi cũng vậy,” Tôi nói. “Anh khỏe không?”
Mở miệng ra là tôi biết mình lỡ lời liền. Tim chắc quen rồi nên vẫn tỉnh bơ.
“Cũng tàm tạm,” anh nói. “Bữa nay tôi thấy đỡ hơn.”
Tôi gật đầu. Alan tiếp tụp lắc đầu, và tôi thấy mình cứ nhìn nó, cảm thấy như đang nhìn lén một chuyện mà mình không muốn.
“Đây là em tôi, Alan,” Tim nói.
“Hi, Alan.”
Khi thấy Alan không trả lời, tôi nghe Tim thầm thì vô tai Alan, “Alan, anh này không phải là bác sĩ mà là bạn. Em lại chào đi.”
Chần chừ một chút rồi Alan đứng dậy. Nó đi qua phía bên này điệu bộ cứng ngắt, và mặt dù tránh không nhìn vô mắt tôi nó cũng chia tay ra. “Chào anh, tôi là Alan,” nó nói giọng trầm và đơn điệu một cách đáng ngạc nhiên.
“Rất vui khi gặp em,” tôi nói, đưa tay ra bắt. Cú bắt tay mềm xèo, nó rán bóp chặt tay tôi rồi thả ra, rồi quay lại ghế ngồi.
“Có cái ghế trống này, nếu anh muốn ngồi,” Tim nói.
Tôi bước lại chỗ cái ghế trống, xa trong một góc phòng, và ngồi xuống. Trước khi tôi mở miệng thì Tim đã trả lời câu hỏi đang nằm trong đầu tôi.
“Tôi bị ung thư da,” Tim nói. “nếu anh muốn biết.”
“Nhưng mà chắc là sẽ chữa được hết phải không?”
Alan lắc đầu nhanh hơn, và hai tay bắt đầu vỗ vô đùi. Savannah quay mặt nhìn chỗ khác. Tôi biết ngay là mình lỡ miệng.
“Chuyện đó để mấy ông bác sĩ lo,” Tim trả lời. “Ở đây có nhiều bác sĩ giỏi.” Tôi biết là câu trả lời là cho Alan hơn là cho tôi, và Alan bắt đầu bình tĩnh lại.
Tim nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra lại, làm như cố tập trung sức mạnh lại vậy. “Tôi rất mừng thấy anh trở về bình an vô sự,” anh nói. “Tôi luôn cầu nguyện cho anh trong thời gian anh ở Iraq.”
“Cám ơn anh,” tôi nói.
“Lúc này anh ra sao? Chắc là vẫn còn trong lính?”
Tim hất đầu ý chỉ vô đầu tóc húi cua của tôi, và tôi đưa tay vuốt tóc mình. “Đúng vậy, chắc là tôi đi lính cho tới già luôn.”
“Tốt lắm,” Tim nói. “Quân đội cần những người như anh.”
Tôi không nói gì. Cảnh tượng chung quanh làm như không thực, tôi như ở trong một giấc mơ. Tim quay lại nói với Savannah. “Em làm ơn dẫn Alan đi mua cho nó một lon soda? Hồi sáng giờ nó chưa uống gì hết. Và nếu được thì em rán thuyết phục nó ăn chút gì đó.”
“Dạ,” nàng nói. Nàng hôn lên trán Tim và đứng dậy khỏi gường. Nàng ngừng ở cửa. “Alan, mình đi kiếm mua gì uống nghe.”
Đối với tôi, hình như Alan rán hiểu từng chữ một cách chậm chạp. Sau cùng nó đứng dậy và đi theo Savannah; nàng nhẹ nhàng đặt tay lên lưng nó khi bước ra cửa. Khi hai người đi rồi thì Tim quay lại nhìn tôi.
“Mọi chuyện rất là khó khăn cho Alan, nó chịu không nổi.”
“Thì làm sao chịu cho nổi?”
“Đừng để cái đầu quay qua quay lại của nó gạt anh. Lắc lắc như vậy thì không dính dáng gì tới bệnh autism hay trí thông minh của nó gì hết. Chỉ là cái cách nó biểu lộ khi căng thẳng về chuyện gì đó. Cũng như khi nó vỗ tay lên đùi vậy. Nó biết mọi chuyện xảy ra chung quanh, nhưng phản ứng của nó làm cho mọi người chung quanh thấy không thoải mái cho lắm.
Tôi nắm hai bàn tay lại với nhau. “Tôi thấy đâu có gì không là không thoải mái đâu,” tôi nói. “Ba tôi cũng bị bệnh như Alan vậy. Còn Alan là em anh thì nó phải lo là đúng rồi.”
Tim mỉm cười. “Cám ơn anh đã thông cảm. Có nhiều ngừơi nhìn thấy Alan là sợ.”
“Tôi thì khác,” tôi nói, lắc đầu.”Tôi biết là mình có thể chịu được Alan.” Tim cười, mắc dù hình như cười làm anh mệt ra.
“Thì tôi cũng biết vậy,” anh nói. “Alan hiền. Hiền quá là đằng khác. Ngay cả mấy con ruồi nó cũng không dám giết.”
Tôi gật đầu, nhận ra là nói mấy chuyện lặt vặt này là để cho tôi thêm dễ chịu. Nhưng không ăn thua gì .
“Anh biết mình bệnh hồi nào vậy?”
“Một năm nay. Dưới bắp chân tự nhiên mọc cái mụn, thấy ngứa tôi gãi thì chảy máu vậy thôi. Dĩ nhiên là tôi có ngờ gì đâu, cho tới khi ngứa nữa, tôi gãi thì nó chảy máu nữa. Sáu tháng trước tôi đi khám bác sĩ. Bữa đó là thứ Sáu. Thứ Bảy thì tôi lên bàn mổ, và thứ Hai thì bắt đầu chữa trị bằng interferon. Bây giờ thì tôi nằm luôn ở đây.”
“Anh ở trong bệnh viện suốt sáu tháng qua?”
“Không, ra vô vậy thôi. Thông thường chữa trị bằng interferon thì mình như là bệnh nhân ngoại trú vậy, nhưng tôi thì không hạp với interferon. Tôi chịu không nổi nên họ giữ lại. Sợ lỡ tôi yếu quá và mất nước nhiều, như ngày hôm qua vậy.
“Vậy sao,” tôi nói.
Tôi nhìn chung quanh phòng, mắt ngừng lại một khung hình trên cái tủ đầu giường, chụp Tim và Savannah đứng quàng tay chung quanh Alan.
“Anh thấy Savannah ra sao?”
“Thì như anh thấy đó.” Tim đưa ngón tay trỏ kì lên một vết ố trên tấm ra giường. “Cổ rất là giỏi. Không những chỉ đối với tôi, mà đối với chuyện nhà cũng vậy. Gần đây cổ phải lo hết mọi chuyện, nhưng không bao giờ phàn nàn gì. Rồi khi nào ở gần tôi thì cổ rán tỏ ra vững mạnh. Cổ cứ nói với tôi là mọi chuyện sẽ êm đẹp.” Anh mỉm cười méo mó. “Riết rồi tôi cũng muốn tin cổ luôn.”
Khi không thấy tôi trả lời, Tim rán ngồi thẳng người lên trên giường. Anh rên một, nhưng khi hết đau rồi thì anh bình tĩnh lại. “Savannah nói là hôm qua anh ghé và ăn tối ở trang trại.”
“Ừa.”
“Tôi chắc chắn là cổ rất vui khi gặp lại anh, tôi biết là cổ luôn hối tiếc về chuyện cũ. Tôi cũng vậy, tôi phải xin lỗi anh mới đúng.”
“Đừng nói vậy.” Tôi giơ tay lên. “Không có gì đâu.”
Tim cười gượng gạo. “Anh chỉ nói vậy vì tôi đang bệnh, anh và tôi đều biết như vậy. Nếu không thì dám anh đấm tôi gãy mũi luôn.”
“Dám lắm,” tôi thú nhận, và mặc dù anh cười nữa, lần này tôi có thể nghe được cái vẻ bệnh hoạn trong giọng cười anh.
“Cũng đáng đời tôi,” anh nói, theo dòng suy nghĩ của tôi. “Tôi biết là anh không tin, nhưng tôi thấy không vui vì chuyện đã như vậy. Tôi biết là anh và Savannah thương nhau rất nhiều.”
Tôi chồm tới trước, tựa người lên hai cùi chỏ. “Chuyện cũ qua rồi,” tôi nói.
Tôi không tin lời mình nói, Tim cũng vậy. Nhưng như vậy cũng đủ cho hai chúng tôi để qua chuyện cũ một bên.
“Cả mấy năm rồi, nay anh về có chuyện gì vậy?”
“Ba tôi mất,” tôi nói. “Tuần trước.”
Mặc dù tình trạng bệnh họan của anh, Tim vẫn lộ vẻ chia buồn chân thành. “Xin chia buồn cùng anh, John. Tôi biết là ông bác rất là gần gũi với anh. Bác mất thình lình hay sao?”
“Lúc cuối là như vậy, nhưng ông già cũng đã bị bệnh một thời gian dài.”
“Nhưng mà như vậy cũng đâu có làm mình bớt buồn đâu.”
Tôi không biết là anh chỉ nói về tôi hay là cho cả Savannah và Alan.
“Savannah nói là ba má anh cũng đã qua đời.”
“Bị tai nạn xe cộ”, anh nói, rán nặn từng chữ. “Chuyện … khó tin. Tụi tôi mới gặp và ăn tối với hai ông bà mấy hôm trước, xong mấy hôm sau là lo chuyện ma chay. Nhớ lại vẫn thấy như là chuyện không có thật. Khi nào ở nhà là tôi vẫn cứ tưởng là bà già còn quanh quẩn trong bếp và ông già lui cui ngoài vườn.” Anh ngần ngừ, và tôi biết là những hình ảnh cũ đang hiện ra trong đầu anh. Sau cùng anh lắc đầu. “Khi về nhà, anh có thấy như vậy không?”
“Ừa, luôn luôn lúc nào cũng vậy.”
Tim ngửa đầu ra sau. “Tôi nghĩ mấy năm qua thiệt là gian truân cho cả anh lẫn tôi. Đủ để thử thách đức tin của mình.”
“Anh mà cũng vậy sao?”
Anh cười nửa giọng. “Tôi nói thử thách. Tôi đâu có nói là mất luôn đâu.”
“Ừa, tôi cũng nghĩ vậy.”
Tôi nghe tiếng cô y tá lại gần, tưởng là cổ sẽ vô phòng nhưng cổ lại đi qua phòng kế bên.
“Tôi rất vui khi thấy anh ghé thăm Savannah,” anh nói. “Tôi biết là nghe qua thì cỏ vẻ tích tuồng vì tất cả những gì đã xảy ra giữa anh và cổ, nhưng cổ cần một người bạn trong lúc này.”
Cổ họng tôi thắt lại. “Ừa,” tôi chỉ nói được chừng đó.
Tim im lặng, tôi biết là anh sẽ không nói thêm gì nữa về chuyện này. Từ từ anh chìm vào giấc ngủ, tôi ngồi nhìn anh, đầu óc trống trơn một cách kỳ cục.
* * *
“Em xin lỗi là hôm qua đã không nói cho anh biết,” Savannah nói với tôi, một giờ sau. Khi nàng và Alan trở lại phòng, thấy Tim đang ngủ nàng mới ra dấu cho tôi theo nàng xuống dưới cafeteria ở lầu dưới. “Gặp lại anh em ngạc nhiên quá đỗi, em biết là mình nên nói cho anh hay nhưng sao mỗi lần muốn nói là mở miệng không được.”
Hai đứa tôi uống trà, vì không ai muốn ăn gì cả. Savannah nâng tách trà lên rồi lại để xuống.
“Anh biết không? ngày nào cũng vậy, em phải vô đây, mấy cô y tá nhìn mình với ánh mắt thương hại, em chết lần chết mòn vì những ánh mắt thương hại này. Em biết là nghe qua thấy kì cục vì bệnh tình của Tim rành rành ra đó, nhưng nhìn Tim bệnh em chịu không nổi. Em ghét cái chuyện này. Em biết là mình phải có mặt ở đây để lo cho ảnh, nhưng nhìn ảnh lúc nào em cũng thấy bệnh tình nghiêm trọng hơn là mình tưởng. Hôm qua sau khi xạ trị, ảnh mệt quá em tưởng là ảnh đi luôn rồi chớ. Ảnh ói mửa liên tục, ngừng lại không được ảnh cứ vừa mửa vừa rán lau ngực. Cứ năm mười phút là ảnh rên rỉ và trở mình ráng để đừng mửa nhưng không ăn thua gì. Em ôm ảnh, an ủi vỗ về, nhưng làm sao diễn tả được cái cảm giác thấy mình bất lực không giúp gì được cho ảnh.” Nàng nhúng lên nhúng xuống cái túi trà. “Lần nào cũng vậy.”
Tôi xoay xoay cái tay cầm của tách trà. “Anh không biết nói gì đây.”
“Có gì đâu để anh nói được, em biết vậy. Cho nên em tâm sự với anh là vậy. Vì em không có ai để mà nói. Trong đám bạn bè của em, đâu có ai hiểu nổi những gì em đang trải qua. Ba má em thì đại khái cũng giúp đỡ rất nhiều. Em nhờ gì cũng làm, và lúc nào cũng đòi giúp này giúp kia, và má em nấu sẵn đồ ăn đem qua cho, nhưng lúc nào gặp mặt má cũng như sắp khóc vậy. Làm như má sợ lỡ miệng nói điều gì không phải, cho nên mỗi lẫn má giúp làm chuyện gì thì làm em phải giúp má chớ không phải má giúp em. Mọi chuyện dồn lại, nhiều khi em chịu không nổi. Em không muốn nói ra, vì em biết má em rán hết mình và má là má, nhưng ước gì má mạnh mẽ hơn một chút thì đỡ cho em biết mấy.
Nhớ lại cái kiểu của má nàng, tôi nhún vai. “Còn ba em thì sao?”
“Ba thì cũng vậy nhưng kiểu khác. Ba tránh né chuyện này. Ba không muốn nói gì về chuyện này hết. Khi cả nhà gặp nhau thì ba nói chuyện trời trăng mây nước, chuyện nhà cửa, chuyện việc làm – chuyện gì cũng được miễn là đừng dính tới Tim. Làm như ba rán bù lại cho cái chuyện má lúc nào cũng lo, nhưng không bao giờ ba hỏi về Tim, hay em ra làm sao.” Nàng lắc đầu. “Còn Alan nữa. Tim thiệt là hay đối với nó, em nghĩ từ từ em cũng quen với nó được, nhưng có nhiều lúc nó nổi cơn lên đập phá này nọ, em không biết làm sao chỉ ôm mặt khóc. Đừng hiểu lầm em – em cũng ráng hết mình nhưng em đâu phải là Tim.”
Nàng nhìn vô mắt tôi và ngừng lại một chặp trước khi tôi nhìn chỗ khác. Tôi nhấp một ngụm trà, ráng tưởng tượng ra những gì nàng đang chịu đựng.
“Tim có nói cho anh biết chuyện bệnh tật của ảnh? chuyện ung thư da?”
“Sơ sơ thôi,” tôi nói. “Không đủ để biết hết mọi chi tiết. Đại khái Tim thấy một cái mụt chảy máu. Chịu đựng một thời gian rồi mới đi khám bác sĩ.”
Nàng nhún vai. “Thiệt là khôi hài, phải không anh? Ý em nói phải mà Tim suốt ngày dang ngoài nắng thì em còn hiểu được. Mà lại ở phía sau bắp chuối chân nữa chớ. Anh biết Tim rồi, anh thử tưởng tượng ra Tim mặc quần sọt nổi không? Ảnh rất ít khi mặc quần sọt, ngay cả khi xuống biển, và ảnh là người lúc nào cũng nhắc tụi em phải thoa kem chống nắng. Ảnh không rượu chè hút sách gì hết, ăn uống thì cẩn thận kĩ lưỡng. Nhưng không biết vì sao lại bị ung thư da. Bác sĩ cắt phần da thịt chung quanh cái mụn, và vì cỡ cái mụn, họ lấy ra mười tám nhánh mạch máu. Một trong mười tám mạch máu này bị ung thư. Tim mới bắt đầu interferon – cách chữa trị tiêu chuẩn là vậy, và cả năm trời – và tụi em rán lạc quan. Nhưng bắt đầu có chuyện. Trước là với interferon, xong sau khi giải phẩu vài tuần ảnh lại bị cellulitis gần chỗ mối mổ.”
Thấy tôi ngơ ngáo nàng mới ngớ ra.
“Em xin lỗi. Lúc sau này em quen kiểu nói chuyện với bác sĩ. Cellulitis là một loại nhiễm trùng da, và của Tim thì rất nghiêm trọng. Ảnh nằm trong phòng chăm sóc đặc biệt cả mười ngày về vụ này. Em tưởng là anh đi luôn rồi chớ, nhưng anh biết mà Tim đâu dễ gì. Ảnh vượt qua được và tiếp tục với chuyện điều trị ung thư, nhưng tháng trước lại thấy một chỗ ung thư gần cái mụn lúc đầu. Như vậy có nghĩ là thêm một vòng giả phẩu nữa, nhưng điều đáng lo hơn là interferon coi bộ không có hiệu lực. Cho nên ảnh đi scan PET và MRI, và như là dự đoán, người ta thấy ung thư đã chạy vô phổi ảnh.”
Nàng nhìn chăm chăm vô tách trà của mình. Tôi nói không ra lời, và cả hai đứa im lặng một chặp.
“Anh xin lỗi.” Sau cùng tôi nói nhỏ.
Tôi nói làm nàng sực tỉnh. “Em sẽ không đầu hàng,” nàng nói, giọng nàng bắt đầu lạc. “Tim là người tốt. Ảnh dễ thương và kiên nhẫn, và em thương ảnh rất nhiều. Ông trời không công bằng. Tụi em lấy nhau chưa tới hai năm.”
Nàng nhìn tôi, hít vài hơi thở dài, ráng lấy lại bình tĩnh.
“Ảnh cần phải đi bệnh viện khác, ra khỏi bệnh viện này. Ở đây người ta chỉ chữa bằng interferon, mà như em đã nói, cách này không hữu hiệu. Ảnh cần phải vô mấy chỗ như MD Anderson hay bệnh viện Mayo hay John Hopkins. Mấy chỗ này có nghiên cứu hiện đại. Nếu interferon không hữu hiệu thì họ có thể cho thuốc khác – họ luôn luôn thử nhiều loại thuốc khác nhau, dù chỉ là thử nghiệm. Cũng có xạ trị kiểu bio và thử nghiệm ở những nơi khác. MD Anderson còn tính cả chuyện thử thuốc ngừa vào tháng mười một này, giống như là mấy thứ thuốc ngừa khác vậy, nhưng để chữa trị thì kết quả không khả quan mấy. Em muốn Tm được tham dự vô vụ thử nghiệm này.”
“Vậy thì còn chờ gì nữa.” tôi hối.
Nàng cười gọn.” Đâu có dễ vậy đâu?”
“Tại sao vậy? Anh thấy cũng đơn giản. Xuất viện ở đây xong lên xe chạy lại đẵng.”
“Bảo hiểm họ không chịu trả,” nàng nói. “Ít ra là bây giờ. Ở đây Tim được chữa trị đầy đủ theo tiêu chuẩn – và anh có biết không, lâu nay họ cũng rất nhiệt tình. Họ trả tiền bệnh viện, tiền chữa interferon, và mọi thứ phụ khoản khác mà không thắc mắc gì. Họ còn có một cô phụ giúp riêng cho em hàng ngày, và tin em đi là cổ cũng thông cảm với hoàn cảnh tuyệt vọng của tụi em. Nhưng cổ đâu có giúp được gì nhiều, bởi vì bác sĩ nghĩ là tốt nhứt là cứ chữa bằng interferon một thời gian xem sao. Không có hãng bảo hiểm nào trên đời lại chịu trả tiền cho những phương pháp chữa trị thí nghiệm. Và cũng không có hãng bảo hiểm nào chịu trả tiền cho những phương pháp chữa trị ngoài tiêu chuẩn, đặc biệt là ở mấy tiểu bang khác và những phương pháp mới mẻ chỉ thử họa may.”
“Nhưng nếu tới đường cùng thì em cũng phải thử cho biết.”
“John, hãng bảo hiểm trả không ngán tay những chi phí phụ trội như phòng chăm sóc đặc biệt, thuốc men này nọ, và thực tế là Tim được chữa trị đầy đủ nghiêm chỉnh. Làm sao em chứng minh được là qua chỗ khác với phương pháp chữa trị khác thì Tim sẽ khá hơn. Em nghĩ là như vậy, em hi vọng là như vậy, nhưng đâu có ai biết được chắc chắn là sẽ như vậy đâu.” Nàng lắc đầu. “Mà dẫu cho bảo hiểm có chịu trả đi nữa thì cũng cần thì gian … mà mình lại không chờ được.” Nàng thở dài. “Ý em muốn nói là rắc rối không phải chỉ tiền bạc mà còn là thì gian nữa.”
“Tốn chừng cỡ bao nhiêu vậy?”
“Rất nhiều. Và nếu Tim bị nhiễm trùng, rồi phải vô phòng chăm sóc đặc biệt – như lần trước – thì em cũng không biết đâu mà đoán. Chắc chắn là em sẽ không trả nổi.
“Vậy thì em tính sao?”
“Thì ráng kiếm cho đủ tiền,” nàng nói.” Chớ đâu có cách gì khác. Và cộng đồng cũng giúp đỡ rất nhiều. Khi mới có tin là Tim bị bệnh như vầy thì đài TV địa phương và báo chí có loan tin, và bà con hứa là sẽ quyên góp. Họ mở một tài khoản đặc biệt ở nhà băng và lo mọi chuyện. Ba má em cũng giúp. Ở sở làm cũng giúp. Phụ huynh của mấy đứa mà tụi em dạy cũng giúp. Em nghe nói là họ cũng để mấy hũ đùng binh ở nhiều cửa hàng quán xá để quyên góp.”
Tôi chợt nhớ tới cái hũ quyên tiền ở trong chỗ chơi bi da ngày tôi mới tới Lenoir. Tôi bỏ vô mấy đồng, giờ nghĩ lại tự nhiên thấy không ăn thua gì hết.
“Đã gần đủ chưa?”
“Em cũng không biết.” Nàng lắc đầu, làm như thể không muốn nghĩ tới chuyện này. “Chuyện này bắt đầu cũng đã lâu, và từ lúc Tim bắt đầu chữa trị thì em lu bu vừa chuyện nhà vừa chuyện ở đây. Nhưng chuyện này tốn nhiều lắm.” Nàng đẩy tách trà qua một bên và cười buồn. “Em không hiểu tại sao lại đem mấy chuyện này ra nói với anh làm chi. Ý em muốn nói là đi mấy bệnh viện khác chưa chắc gì khá hơn. Nhưng em biết là nếu ở đây thì không xong. Đi chỗ khác thì cũng chưa chắc sống sót nhưng ít ra còn hi vọng … Và ngay lúc này thì em chỉ biết bám víu vào đó.”
Nàng nghẹn lời, không nói tiếp được, nhìn trân vô tấm khăn trải bàn hoen ố.
“Và anh biết điều gì kì cục không?” sau cùng nàng mở miệng hỏi. “Anh là người duy nhất em kể chuyện này. Không biết vì sao mà em chỉ nói mấy chuyện này được với anh thôi, mà không phải đắn đo giữ lời. Nàng cầm tách trà lên rồi để xuống lại. “Em biết như vầy là không công bằng cho anh, vì anh còn buồn chuyện của ba anh…”
“Không sao đâu,” tôi trấn an nàng.
“Có lẽ vậy,” nàng nói. “Nhưng em cũng ích kỉ. Anh thì đang ráng vượt qua cái nỗi buồn ba anh đã mất, còn em đây thì chỉ lo chuyện xa xôi, chưa chắc đã xảy ra.” Nàng quay nguời nhìn ra cửa sổ, như tôi biết là nàng chẳng thấy ngoài sân cỏ xanh hay đỏ.
“Em này,” tôi nói, đưa tay nắm lấy tay nàng. ” Anh nói thiệt. Anh cũng mừng là em nói được ra hết cho nhẹ lòng.”
Từ từ, Savannah nhún vai. “Vậy là hai đứa mình với nhau hả anh? Như hai người lính bị thương nương tựa vào nhau.”
“Cũng gần gần như vậy.”
Nàng đưa mắt lên nhìn vô mắt tôi. “Thiệt hên cho hai đứa mình,” Nàng thì thầm. Mặc dù mọi chuyện xưa nay không còn gì nữa, nhưng tôi vẫn cảm thấy tim mình nhảy lướt một nhịp.
“Ừa,” tôi lập lại, “hên cho hai đứa mình.”
Tụi tôi ở trong phòng bệnh với Tim cả buổi chiều. Anh chàng ngủ khi tụi tôi quay lại, thức dậy một chút, xong ngủ tiếp. Alan ngồi canh chừng ở cuối giường, không để ý gì tới tôi, chỉ lo chắm chú vô ông anh của mình. Savannah thì hoặc ngồi trên giừơng bên cạnh Tim hoặc ngồi trên ghế kế bên tôi, nói về bệnh tình của Tim, về bệnh ung thư da nói chung. Nàng bỏ thì giờ lên mạng nghiên cứu và biết rõ chi tiết của những chỗ có chữa thử nghiệm. Nàng nói thì thầm, không muốn cho Alan nghe. Khi nàng nói xong thì tôi biết rành rẽ mọi chuyện về bệnh melanoma.
Khi gần tới giờ cơm chiều, Savannah đứng dậy, và nhẹ nhàng hôn Tim trước khi ra về, tôi biết là nàng tin là anh chàng sẽ ngủ li bì suốt đêm. Nàng hôn Tim một lần nữa, siết tay Tim và ra dấu tôi về phía cửa. Tụi tôi nhón nhén đi ra.
“Ra xe trước cái đã,” nàng nói khi hai đứa đã ra ngoài hành lang.
“Em có quay lại nữa không?”
“Ngày mai em mới vô lại. Nếu Tim thức dậy, em không muốn vì mình mà Tim phải tiếp tục thức. Ảnh cần nghỉ ngơi.”
“Còn Alan thì sao.”
“Nó đạp xe đạp,” nàng nói. “Nó đạp từ nhà tới đây mỗi sáng và tối thì đạp về. Nó không chịu đi với em, dù em có đề nghị. Nó đạp đi đạp về như vậy cả mấy tháng nay rồi.”
Vài phút sau, hai đứa tôi rời bãi đậu xe của bệnh viện và ra đường lớn. Bầu trời trở nên xám sẫm, mây đen tụ về ở cuối chân trời, báo trước một cơn giông thường thấy ở vùng biển. Savannah chìm đắm trong suy nghĩ riêng tư và nói rất ít. Trên mặt nàng tôi nhìn thấy một nỗi mệt mỏi tận cùng, như tôi đang cảm thấy trong mình. Tôi không tưởng tượng được cái cảnh nàng trở lại đây ngày mai, ngày mốt, ngày kia, trong khi trong đầu biết là đâu đó có một bệnh viện khác chữa trị hay hơn.
Tôi quẹo xe vô cổng nhà nàng, nhìn qua Savannah và để ý thấy có mấy giọt nước mắt lăn chầm chậm trên má nàng. Cái cảnh này làm tim tôi muốn bể làm tư, nhưng khi thấy tôi nhìn, nàng đưa tay lau mặt và lộ vẻ ngạc nhiên là nước mắt rớt xuống hồi nào vậy. Tôi ngừng xe dưới tàn cây dương liễu, kế bên chiếc xe vận tải cũ kĩ.
Tới lúc này thì mưa bắt đầu rơi trên kính xe. Xe đậu lại, tôi thắc mắc không biết là đã tới lúc chia tay chưa. Trước khi tôi có thể nghĩ ra câu gì để nói thì Savannah quay về phía tôi. “Anh đói bụng không?”, nàng hỏi. “Có đồ ăn ê hề trong tủ lạnh.”
Có điều gì đó trong ánh mắt nàng nhắc ngầm là tôi nên từ chối, nhưng tôi lại gật đầu. “Ừa, có gì dằn bụng giờ này thì hay biết mấy.” Tôi nói.
“Cám ơn anh,” nàng nói nhẹ. “Em không muốn ở nhà một mình tối nay.”
Nguyễn Sĩ Hạnh phỏng dịch
0 Bình luận