Hai người về đến chùa thì trời đã tối, các môn các phái đã tề tập không ít, chùa Thiếu Lâm trở nên tấp nập, Dương Thông và Triệu Tử Phong ai nấy về lại nơi mình ở. Dương Thông ăn tối với Tống Thanh, Lỗ trưởng lão nghe bên ngoài nơi nơi đều có tiếng người, ngày mai chính là mồng tám tháng chạp chùa Thiếu Lâm mời tất cả các môn phái cùng lại ăn bát cháo Bát Bật, một số bởi vì không có nơi an thân bèn đến thẳng chùa.

Ba người ăn xong cơm chiều rãnh rỗi không có chuyện gì bèn đi ra Đại Hùng bảo điện, vừa đến nơi bèn thấy Trí Không đại sư đang chuyện trò với một người đàn bà trung niên, Dương Thông thấy bà ta một thân kình trang võ phục màu phấn hồng, khoác chiếc áo gió màu trắng, lưng đeo một thanh trường kiếm màu bạc, chuôi kiếm có trạm một hạt bảo ngọc lấp lánh xem ra vô cùng quý giá, tuổi tác khoảng chừng bốn mươi mà vẫn phong tư trác ước,da dẻ trắng hồng khuôn mặt trái soan mi mày như vẽ dáng dấp yêu kiều ánh mắt long lanh quả nhiên phải là một trang tuyệt sắc giai nhân thuở còn trẻ. Bên cạnh người đàn bà là một trung niên thư sinh ray cầm cây quạt, dáng mạo anh tuấn hiên ngang phong lưu sành điệu, xem ra là một tay tài tử đa tình đa dạng, năm xưa hẳn phải là một trang mỹ nam tử kiêm đủ cầm kỳ thi họa, sau lưng hai người có mười mấy đệ tử đứng hầu.

Lỗ trưởng lão thấy hai người đó bèn hạ giọng nói với Dương Thông:

– Bang chủ, hai người này là vợ chồng Trầm chưởng môn của phái Hoàng Sơn.

Dương Thông vừa vào đến nơi đã suy đoán được người này là chưởng môn phái Hoàng Sơn Phi Thiên Vân Yến Trầm Bích Vân và ông chồng, phái Hoàng Sơn đứng hàng chót trong mười môn phái lớn, vị trí trên núi Hoàng Sơn ở An Vi, lịch sử có tới gần hai trăm năm, chưởng môn phái này đời đời cư trú ở Ngọc Bình Lâu, ngọn Thiên Đô Phong, núi Hoàng Sơn nổi danh thiên hạ đệ nhất kỳ sơn, vừa có hiểm trở của núi Hoa Sơn vừa có vân vụ của núi Hoành Sơn, thác nước của núi Lô Sơn, hùng vĩ của núi Thái Sơn, thanh tịnh của núi Nga Mi, kỳ thạch của núi Nhạn Đãng. Truyền thuyết Hoàng Đế của thời cổ đã từng ở đây luyện đan nấu thuốc, cứu vớt lê dân khỏi bệnh tật mà nổi tiếng.

Người đàn bà kia thấy bọn Dương Thông ba người từ sau đại điện bước vào, một thanh niên phong độ đường đường tay cầm cây gậy trúc màu xanh, theo sau là hai đệ tử Cái Bang bèn chững chạc đứng dậy hướng về Dương Thông thi lễ cười nói:

– Vị này hẳn là tân bang chủ của Cái Bang danh tiếng vang động giang hồ gần đây là Dương thiếu hiệp có phải chăng ?

DưƠng Thông thấy bà ta là bậc nữ lưu mà hào sảng phóng khoáng không câu nệ lễ phép của thế tục lấy làm bội phục bèn đáp lễ nói:

– Không dám, tại hạ chính là Dương Thông, chắc hai vị đây là hiền khang lệ Trầm chưởng môn của phái Hoàng Sơn!

Trầm Bích Vân kiểm vạt áo cười nói:

– Không dám, tiểu phụ nhân là Trầm Bích Vân.

Nói xong quay đầu qua chỉ vào thư sinh trung niên bên cạnh giới thiệu:

– Còn đây là chuyết phu Long Khiếu Phong.

Thư sinh rất là nho nhã, chầm chậm đứng dậy, xếp quạtđộng tác vô cùng nhàn nhã, hướng về Dương Thông chắp tay làm lễ nói:

– Vãn sinh Long Khiếu Phong xin chào Dương bang chủ.

Dương Thông hốt hoảng hoàn lễ miệng cười nói:

– Không dám, tiểu đệ xin chào Long huynh, kính chúc Long huynh vợ chồng bạch đầu giai lão, con cháu đầy đàn.

Long Khiếu Phong nghe vậy vô cùng hớn hở cười ha hả nói:

– Đa tạ lời chúc của Dương bang chủ, đổi ngày xin mời đến Ngọc Bình Lâu chuyện trò, Long mỗ nhất định tiếp đãi Dương bang chủ một chầu say sưa mới thôi.

Dương Thông cười đáp:

– Đà nghe đại danh Long huynh và Trầm chưởng môn từ lâu, hôm nay được gặp, tại hạ thật là có duyên, nếu Trí Không đại sư không mời mọi người lại e rằng còn chưa được tương kiến hiền khang lệ, sang ngày nhất định lại bái phỏng.

Dương Thông cũng đã nghe tới danh tiếng của Long Khiếu Phong với cây quạt điểm huyệt công phu không phải hạng phàm tục, lúc còn trẻ ông ta đã là một tay vũ công cao cường, bây giờ mười mấy năm dốc tâm tập luyện trên núi vũ công ắt hẳn đã đạt đến mức cao thâm khôn lường.

Phái Hoàng Sơn sáng lập ở triều Nguyên đến nay đã được gần hai trăm năm lịch sử, người sáng lập ra chính là Hải Vân thiền sư vốn là một mưu sĩ dưới trướng Nguyên thế tổ Hốt Tất Liệt, lúc Nguyên thế tổ còn tại vị, ông ta rất được trọng dụng, ông ta cũng tận tâm tận lực phò tá Hốt Tất Liệt trị vì đất nước. Hốt Tất Liệt lúc còn trẻ là một vị vua anh minh, có điều đến lúc lão về già phạm rất nhiều lỗi lầm đồng dạng với vô sốc ác vị vua khác, là trọng dụng bọn gian thần A Hợp Mã, Nghiêm Thế Vinh, Tang Ca, không những thế quyền thế càng lớn lại càng tự căng tự đại, già đến tám mươi tuổi vẫn cứ nắm giữ ngôi vị không cho thái tử tham dự triều chính, giao hết chuyện lớn chuyện nhỏ cho mấy kẻ gian thần nắm giữ, kết quả triều đình hỗn loạn, trung thần hiền lương đều bị bài trừ, lão lại rất nghi ngờ bọn quần thần có công, cứ nghĩ họ manh tâm chiếm đoạt ngôi vị của mình do đó đa số hiền thần trong triều đều bị biếm chức làm thứ dân thậm chí còn bị sát hại, ngay cả thái tử Chân Kim lão cũng không tha sợ thái tử tranh ngôi vị của mình, bèn bức tử thái tử, Chân Kim vốn là một người chính trị gia lỗi lạc, lúc chết chỉ có bốn mươi ba tuổi. Bởi vì Hải Vân thiền sư vốn trước giờ là kẻ phò tá thái tử Chân Kim, ông ta thấy thái tử đã chết, Hốt Tất Liệt lại là người thị phi không phân minh bạch, không thể nào còn phù trì gì được triều Nguyên do đó đành phải lui về núi Hoàng Sơn ở ẩn trốn tai họa. Hải Vân thiền sư không những trí thức tài ba, vũ công cũng rất cao cường, văn tài vũ lược đều thuộc hạng trác tuyệt, bấy giờ ông ta đã đến tuổi già nua có hơn bảy mươi, bèn nghĩ đến chuyện đem vũ công tài học của mình truyền lại cho hậu thế, thế là ông ta thu lấy hai đệ tử, đến hơn chín mươi tuổi mới qua đời, ông ta chết rồi, hai kẻ đệ tử kế thừa di nguyện kiến lập chùa chiền thu nhận môn đồ, dần dần tạo thành một môn phái đến cuối thời Nguyên đầu thời Minh, thiên hạ loạn lạc, những kẻ mất nhà mất cửa gần đó đem con cháu mình gởi lên núi Hoàng Sơn mong giữ mạng thế là phái Hoàng Sơn từ đó phấn chấn lên đến thời Hoàng Sơn lão tẩu phái Hoàng Sơn trở thành một trong mười môn phái lớn trong giang hồ.

Vũ công phái Hoàng Sơn đa phần là từ Hải Vân thiền sư, mà vũ công của Hải Vân thiền sư là từ chùa Bảo Lâm ở Lĩnh Nam, nội công thiên về lối dương cương oai thuần mãnh, vốn không thích hợp với nữ lưu, thêm vào đó những thứ vũ công Hải Vân thiền sư để lại đều có liên hệ đến phái Thiếu Lâm, mà vũ công của phái Thiếu Lâm phải cần đến chuyện tinh thông Phật lý mới phát huy được oai lực,do đó mà phái Hoàng Sơn lúc đầu còn chưa nổi lên được, sau này các chưởng môn hấp thu vũ công của các phái khác tự mình sáng chế ra vài thứ vũ công mới, phái Hoàng Sơn mới bắt đầu nổi danh, mãi cho đến thời Hoàng Sơn lão tẩu cơ duyên xảo hợp ăn được linh chi ngàn năm ở núi Hoàng Sơn vũ công tiến triển một bước lớn, lúc đó phái Hoàng Sơn mới nổi bật lên trong chốn giang hồ. Kiếm pháp phái Hoàng Sơn lợi hại nhất là chiêu Mộng Bút Sinh Hoa, Tê Ngưu Vọng Nguyệt, Khổng Tước Hý Liên, Kim Quy Bà Sơn, Hầu Tử Quan Thái Bình, Nam Hải Quan Âm, Tiên Nhân Chỉ Lộ, tất cả đều do lão sáng chế ra, không những thế chiêu nào chiêu nấy đều lấy tên từ các chỗ danh thắng ở núi Hoàng Sơn, còn một đường Thiên Cang Thủ là do lão kết hợp vũ công truyền lại là Ngũ Cầm Cầm Nã Thủ sáng tạo thêm cái mới, Ngũ Cầm là chỉ cọp, báo, sói, gấu và mèo rừng năm thứ động vật, các chưởng môn đời trước dựa vào hành động mấy con thú này lúc đi săn mà sáng chế ra đường Cầm Nã Thủ vô cùng lợi hại, còn Hoàng Sơn lão tẩu lại còn theo quan sát riêng của mình vào các động tác như hầu dược (khỉ nhảy nhót), xà hành (Rắn trường), cẩu khiêu (chó tung mình), ưng kích (chim ưng chụp), kê tường (gà bay) thêm vào những thứ sẵn có sáng chế ra một đường Thiên Cang Thủ chuyên chụp, giữ huyệt đạo của địch thủ, thường thường chỉ một chiêu đã thành công, ngụy dị khôn lường, tinh diệu khôn tả, có thể ngang ngửa với đại cầm nã thủ và tiểu cầm nã thủ của các môn phái lớn trong giang hồ.

Trầm Bích Vân nghe Dương Thông nói vậy lấy làm hoan hỉ quay người qua vẫy tay gọi:

– Đem lại đây!

Bà ta nói xong bèn có một gã đệ tử đứng sau trình lên một hộp gấm, Trầm Bích Vân đón lấy đưa lại trước mặt Dương Thông cười nói:

– Dương bang chủ, chúng ta lần đầu gặp nhau, tiểu phụ nhân không biết gì để tặng, trong hộp này có đựng linh chi hà thủ ô sản vật của bản phái lấy từ trong rừng sâu núi thẳm không có người ở, rất có hiệu lực trị liệu nội thương và thân thể hư nhược, tiểu phụ nhân khó được dịp may gặp được Trí Không đại sư, lúc nãy đã tặng một ít, còn lại một ít thật không thành kính ý, mong Dương chủ không hiềm nhận cho, xem như là lễ vật kiến diện của tiểu phụ nhân.

Dương Thông giật nảy mình, linh chi hà thủ ô là thứ thuốc vô cùng quý giá, người thường không sao có chỗ mua được, lại có công dụng khởi tử hoàn sinh lại càng hiếm có, y hoảng hốt xua tay nói:

– Trầm chưởng môn xin đừng khách khí, đây là thứ đồ quý trọng tại hạ thật không dám nhận, Trầm chưởng môn hậu ý tại hạ xin tâm lãnh.

Trầm Bích Vân cười nói:

– Dương bang chủ không lẽ còn hiềm ít quá chăng ?

Long Khiếu Phong cũng cười nói:

– Cái Bang là đệ nhất bang phái trong thiên hạ, xem ra phu phụ chúng tôi không dám vói cao quá.

Trí Không đại sư cũng chắp tay niệm Phật nói:

– A Di Đà Phật! Trầm chưởng môn có ý ban ân huệ cho bốn phương, Dương bang chủ, ngài cũng nên nhận lấy thôi! Lão nạp cũng đã mặt dày mày dạn nhận lấy rồi.

Dương Thông thấy hai vợ chồng lòng thành, đành phải thu nhận, chắp tay cảm tạ nói:

– Long huynh và Trầm chưởng môn đã trọng vọng tại hạ như vậy, tại hạ chỉ biết cung kính bất như tòng mệnh thôi.

Nói rồi tiếp lấy giao qua cho Tống Thanh, Trầm Bích Vân thấy Dương Thông đã nhận bèn vô cùng cao hứng, mọi người trò chuyện một hồi, bởi vì chùa Thiếu Lâm trước giờ không lưu nữ khách do đó Trí Không đại sư bèn phái người đưa đám người phái Hoàng Sơn qua chùa Liên Hoa nghỉ ngơi.

Bọn Dương Thông ba người cũng trở về phòng nghỉ ngơi, Dương Thông mở hộp ra thấy cây linh chi màu sắc tươi nhuận màu tím sẫm vừa lớn lại vừa dày nặng có hơn một cân, vừa mở hộp ra là có mùi thơm thoang thoảng xông vào mủi, y biết đây là thứ trân phẩm cực kỳ quý giá, lại nhìn qua cây hà thủ ô cũng lớn tương đương đã thành ra hình dạng cũng là một thứ cực phẩm hiếm có, xem ra hai thứ này đều đã có hơn trăm năm mới tạo được ra hình thù như vậy, linh chi là thứ thuốc có thể dùng dinh dưỡng tinh tủy hoặc bổ dưỡng thiếu thốn hoặc an thần hoặc tăng khí chất còn có công dụng khởi tử hoàn sinh vốn là sản phẩm của thiên nhiên. Linh chi sinh trưởng ở những vách núi cheo leo ít ai bén mãng tới, đòi hỏi nhiệt độ và mức độ ẩm thấp vô cùng khắc khe mới lớn lên được, mà núi HOàng Sơn vốn là nơi rất thích hợp cho linh chi, hội đủ điều kiện cho linh chi tăng trưởng vừa lớn vừa dày, người ta gọi là ‘nhục chi’, có cây còn nặng tới mấy cân, thậm chí còn thấy có cây nặng tới mười mấy cân, linh chi núi Hoàng Sơn thường là hạng cực phẩm. Còn hà thủ ô cũng là thư thuốc rất trân quý, rễ của nó gọi là dạ giao đằng, lâu năm mọc quanh cây cỏ, vô cùng to lớn có màu xanh, vừa rắn chắc vừa nặng, lá có hình trái tim nở hoa màu trắng, hà thuổ hơn trăm năm có hình giống như người phục vào người có công dụng bổ thận bổ máu cường kiện gân cốt dưỡng tâm an thần, tóc trắng biến thành đen, mặt mày hồng nhuận thanh xuân trụ nhan, chính là một thứ thuốc hiếm có. Truyền thuyết nói về hà thủ ô, vào thời Đường có một lão già tên Hà Thuận Nhi phát hiện ra đầu tiên, lão thấy thứ rễ có hình người đào lên đem về ăn thử, kết quả đầu tóc bạc biến thành đen nhánh, thế là lão bèn gọi thứ rễ này là hà thủ ô. Sau này người ta phát hiện ra hà thủ ô còn có những công dụng hay ho khác thế là ai ai cũng đi tìm kiếm, có điều hà thủ ô phải đợi hơn trăm năm mới thành hình người

Dương Thông có ngờ đến chuyện Trầm Bích Vân rộng rãi như vậy, đi tặng cho mình một lễ vật quá chừng quý giá, bèn quay qua nói với Lỗ trưởng lão:

– Trầm chưởng môn tuy là hạng nữ lưu mà không ngờ lại quá rộng rãi quả thật đáng cho chúng ta kết giao bạn bè.

Tống Thanh cười nói:

– Bang chủ, bà ta có chuyện nhờ đến Cái Bang và Thiếu Lâm dĩ nhiên là có lễ vật cho mình chứ sao! Mình ăn vào rồi thì mềm môi, tay nhận thì tay cụt ngũn đi, tương lai có ngày phái Hoàng Sơn của họ nhờ đến mình thì mình không thể nào không đền đáp lại!

Lỗ trưởng lão cũng cười nói:

– Đúng thế, bà chưởng môn này cũng lanh lẹ lắm, tuy vậy Cái Bang mình hành hiệp trượng nghĩa từ trước đến nay, cho dù bà ta không có gì cho mình thì mình cũng sẽ giúp thôi, huống gì Lưu lão tiền bối cũng vì truy tung nguyên nhân cái chết của lão bang chủ mà bị ngộ hại, chúng ta làm sao buông tay không đụng tới!

Dương Thông gật đầu đồng ý nói:

– Đúng vậy, bọn Di Lặc giáo không những sát hại lão bang chủ chúng ta mà còn tàn sát vũ lâm nhân sĩ trong thiên hạ, Cái Bang mình chỉ biết đòi nợ máu của bọn chúng bất kể ra sao.

Tống Thanh gật đầu khen phải, gã bèn đem hộp đồ thu cất đâu vào đó rồi cười nói:

– Bang chủ, vợ chồng Trầm bang chủ nhiệt tình như thế, có dịp mình lên núi Hoàng Sơn chơi một chuyến.

Lỗ trưởng lão cười hỏi Dương Thông:

– Bang chủ đã từng lên núi Hoàng Sơn bao giờ chưa ?

Dương Thông lắc đầu đáp:

-Trước đây tôi là đứa bé lưu lạc khắp nơi phiêu bạc không chừng, may được lão bang chủ thu làm đồ đệ mới được ngày hôm nay, có điều chưa bao giờ có dịp được lên núi HOàng Sơn.

Lỗ trưởng lão cười nói:

– Trước đây tôi có theo lão bang chủ lên bái phỏng lão chưởng môn Trầm Hạc Tiên do đó có du lãm vài lần, phải nói là nơi đó thật không hỗ được xưng tụng là một kỳ sơn mỹ cảnh!

Dương Thông nghe nói bất giác trong lòng hớn hở hỏi tới:

– Thế sao ? Cảnh đẹp thế nào ?

Lỗ trưởng lão thấy Dương Thông chưa hề tới Hoàng Sơn bèn hỏi:

– Bang chủ có đọc qua bài thơ Lý Bạch ca tụng về núi Hoàng Sơn chưa ?

Dương Thông lắc đầu nguầy nguậy, Tống Thanh cười nối lời:

Hoàng Sơn tứ thiên nhận (Núi Hoàng Sơn cao bốn ngàn thước)
Tam thập nhị liên phong (Ba mươi hai ngọn nối tiếp nhau)
Đan nham giáp thạch trụ (Vách đỏ san sát bên cột đá)
Miêu diêu kim phù dung (Phù dung vàng cả vùng)

Lỗ trưởng lão gật đầu nói tiếp:

– Đúng vậy, Hoàng Sơn có vô số ngọn núi lớn nhỏ được gọi là bảy mươi hai ngọn, trong đó có Thiên Đô phong, Liên Hoa phong, Quang Minh đỉnh ba mươi hai ngọn là trứ danh nhất, Hoàng Sơn có bốn thứ tuyệt vang danh thiên hạ.

DưƠng Thông hỏi:

– Bốn thứ gì là tuyệt ?

Lỗ trưởng lão đáp:

– Bốn thứ tuyệt là vân hải (biển mây), ôn tuyền (suối nước nóng), kỳ tòng (tùng lạ) và quái thạch (đá quái), người ta nói ở Hoàng Sơn, vân hải là váy quần, quái thạch là xương cốt, ôn tuyền là huyết mạch, kỳ tòng là linh hồn, bốn thứ tuyệt đó chính là kỳ quan của thiên hạ.

Dương Thông cười nói:

– Một nơi tiên cảnh trong nhân gian như vậy thảo nào mà Trầm chưởng môn cứ mãi ở trên đó không bao giờ đặt chân vào chốn giang hồ.

Lỗ trưởng lão gục gặc đầu nói:

– Vân hải nổi danh là đệ nhất tuyệt, mỗi lúc mặt trời mọc là vân hải sẽ lóng lánh sáng rực như một nơi bảo tàng, lại giống như một mặt biển đang dậy sóng, mây mù bay lãng đãng qua, khi che khi lộ những ngọn núi tựa như những hòn đảo lênh đênh trong biển cả, gió núi thổi qua, những hòn đảo tựa như đang lao xao tiến gần lại thật là một cảnh tráng quan. Còn kỳ tòng cây nào cũng mọc cheo leo ở vách núi hình tựa như rồng xanh uốn mình qua hóc núi lượn lờ trên mặt biển, lá sen phiêu phiêu trên mặt hồ nơi nào cũNg có, thật là vô cùng đẹp đẻ.

Dương Thông bất giác mơ màng nói:

– Một cảnh tượng như vậy quả nhiên là một kỳ quan hiếm có trong thiên hạ.

Tống Thanh cười nói:

– Bang chủ, còn có thứ tuyệt diệu hơn cả vân hải và kỳ tòng nữa! Ông xem vợ chồng Trầm chưởng môn tuổi đã hơn bốn mươi mà vẫn như còn trẻ, ông có biết lý do tại sao không ?

Dương Thông tò mò hỏi:

– Không lẽ đó là do ôn tuyền ?

Tống Thanh cười đáp:

– Đúng vậy, suối nước nóng ở Hoàng Sơn so với Hoa Thanh thời Đường Minh Hoàng không hề thua kém tý nào.

Lỗ trưởng lão cũng đồng ý:

– Đúng thế, suối nước nóng ở Hoàng Sơn chảy từ đỉnh Tử Vân xuống, cho dù hạn hạn lâu năm vẫn không hề cạn, mưa lâu ngày vẫn không bị đầy, vừa để uống cũng vừa để tắm, màu sắc trong xanh, hương vị ngọt ngào, nước nóng thường thường giữ ở khoảng hơn 40 độ, trong nước còn có hỗn hợp khoáng chất dược liệu, uống nước này quanh năm có thể trụ nhan không bị lão hóa, còn chưa kể có thể biến tóc bạc thành đen, cải lão hoàn đồng, do đó được gọi là linh tuyền, năm xưa Hàn Viên hoàng đế tắm ở nơi đó tóc bạc cả đầu biến thành đen nhánh là vậy.

Dương Thông than lên một tiếng nói:

– Không trách vợ chồng Trầm chưởng môn đã bốn mươi mà không thấy có sợi tóc bạc nào, mặt mày cũng không thấy có nét nhăn, mãi mãi tươi trẻ thì ra đều do kỳ công của ôn tuyền.

Tống Thanh cười xòa nói:

– Đấy cũng chỉ là một trong các yếu tố, nơi bọn họ ở còn có sinh sản linh chi và hà thủ ô, mình tuy xem là bảo bối nhưng đối với họ chẳng qua là đồ ăn hằng ngày thế thôi, bọn họ ăn linh chi hà thủ ô e là còn hơn mình ăn muối là khác!

Dương Thông nghe vậy trong lòng cảm thán tự nhủ:

– Không phải là phí của trời đấy sao ? Thứ đồ qúy trọng như vậy mà lại ăn như cơm bữa thật là đáng tiếc!

Dương Thông đâu biết linh chi và hà thủ ô ở núi Hoàng Sơn cũng bình thường như rau cải sau chùa Thiếu Lâm vậy, chỉ nói linh chi không thôi, mười mấy cân chỉ là chuyện bình thường, dưới mắt bọn họ cũNg không xem là thứ gì trân quý.

Tống Thanh lại cười nói:

– Còn có kỳ phong của Hoàng Sơn nữa, cũng một thứ tuyệt nữa, nổi danh là bảy mươi hai ngọn núi, ngọn nào cũng thẳng đứng như cây bút đâm lên mây mù, nguy nga hùng vĩ, đầy những kỳ hình quái trạng sinh động vô cùng, phong cảnh nổi tiếng có Sư Tử Vọng Nguyệt, Hầu Tử Quan Hải, Tiên Nữ Tú Hoa, Lão Tăng Đả Chung, Vũ Tòng Đả Hỗ vân vân, làm cho ai ai ngắm nhìn cũng tán thán.

Lỗ trưởng lão tiếp lời:

– Đúng thế, còn Liên Hoa Phong là ngọn núi cao nhất ở Hoàng Sơn, hình trạng giống như đóa hoa sen đang mới nở bừng lên không trung do đó mà có tên, còn Quang Minh Đỉnh là ngọn cao thứ nhì, người xưa xưng tụng ‘trạng như hà bản, bàng vô y phò,thu thủy ngân hà, trường không nhất sắc’, là nơi ngắm biển đẹp nhất, Thiên Đô Phong là ngọn cao thứ ba, người xưa xưng tụng là kinh đô của quần tiên, bằng phẳng như bàn tay, nhưng lại khó lên nhất, chỗ hiểm trở nhất cơ hồ là vách đá thẳng đứng, đường duy nhất lên Ngọc Bình Lâu rộng chừng một thước, hai bên là vực sâu vạn trượng, đúng như câu nói ‘nhất phu đương quan, vạn phu mạc khai’.

Dương Thông cười nói:

– Chắc hẳn từ đó đến giờ chưa có kẻ địch nào của phái Hoàng Sơn tấn công lên được Ngọc Bình Lâu.

Lỗ trưởng lão gật đầu nói:

– Đúng thế, Ngọc Bình Lâu là thánh địa của phái Hoàng Sơn từ trước đến nay còn được gọi là Văn Thù Viện, phía sau là Ngọc Bình Phong, đông nam là ngọn Thiên Đô Phong, tây bắc là Liên Hoa Phong, phía trước là vực sâu muôn trượng và cũng là nơi thắng cảnh đẹp nhất, dân gian có câu, ‘bất đáo Văn Thù Viện, bất kiến Hoàng Sơn diện’, và cũNg chỉ lên đến Ngọc Bình Lâu mới xem như là lên tới núi Hoàng Sơn.

Dương Thông nghe hai người nói một hồi trong lòng cảm thấy vô cùng hứng thú muốn lại đó một phen.

Tống Thanh lại nói tiếp:

– Quái thạch ở Hoàng Sơn cũNg là một thứ tuyệt nữa, có Thập Bát La Hán triều Nam Hải, Tòng Thử Khiêu Thiên Đô, Tình Lữ Thạch, Mộng Bút Sinh Hoa, Tê Ngưu Vọng Nguyệt, Khổng Tước Hý Liên, Kim Quy Bà Sơn,Hầu Tử Quan Thái Bình, Nam Hải Quan Âm, Tiên Nhân Chỉ Lộ mấy chục nơi danh thắng, trong đó có một nơi quái thạch tên là Kim Kê Khiếu Thiên Môn rất thần kỳ, xa xa nhìn trông giống như con gà trống khổng lồ vưƠn cánh gáy vang, đến lúc lên đỉnh núi nhìn lại giống như năm ông lão mặc trường bào vịn vào vai nắm tay nhau, nên còn có tên là Ngũ Lão Thượng Thiên Đô, ông xem có lạ không ?

DưƠng Thông càng nghe hai người nói càng cảm thấy thích thú thật là hận không có đôi cánh bay ngay tới Hoàng Sơn xem một phen. Y thình lình sực nhớ tới Đoàn Nhị nói rằng chưởng môn phái Hoàng Sơn là Trầm Hạc Tiên hơn hai mươi năm trước bị Miêu Gia Trại ở Miêu Lãnh Quý Châu là Ngũ Độc Tiên Tử đánh bại, làm cho danh tiếng của phái Hoàng Sơn từ đó lụn bại đi, bèn hỏi Lỗ trưởng lão:

– Nghe nói hơn hai mươi năm trước phái Hoàng Sơn và Miêu Gia Trại ở Miêu Lãnh Quý Châu có hiềm khích với nhau không biết là vì lý do gì ?

Lúc trước y nhớ là Ngũ Độc Tiên Tử lần trước có phái người hộ tống mình và Giản trưởng lão ra khỏi Xuyên, thậm chí còn không sợ đánh nhau với Đường Môn ở xứ Thục, bèn mở miệng hỏi, Lỗ trưởng lão nghe hỏi bèn cười đáp:

– Không phải là vì Long Khiếu Phong, lão bang chủ không nói cho bang chủ nghe chuyện đó sao ?

Dương Thông lắc lắc đầu, Lỗ trưởng lão bèn đem chuyện của Long Khiếu Phong từ đầu đến cuối nói cho Dương Thông nghe.

Thì ra Long Khiếu Phong lúc còn trẻ là một tay độc hành đại đạo danh hiệu là Thiên Lý Độc Hành Khách, lúc còn nhỏ cha mẹ đều qua đời bèn bán sạch hết gia tài đi khắp bốn phương bái sư học võ luyện cũng được một thân vũ nghệ lăn lộn giang hồ tự do tự tại, thiếu tiền thì đợi tới ban đêm lẻn vào một nhà phú hộ ăn trộm tài vật làm lộ phí đi khắp nơi du hí, có khi cũNg giúp đỡ người nghèo khó có điều đa phần là tiêu vào trong thanh lâu kỹ viện làm một gã công tử phong lưu điệu đãng. Còn Trầm Bích Vân là con gái độc nhất của chưởng môn phái Hoàng Sơn là Trầm Hạc Tiên, bởi vì Trầm Hạc Tiên không có con trai do đó coi bà ta như minh châu bảo ngọc sủng ái cùng cực, đem hết vũ nghệ truyền lại cho bà ta. Ngờ đâu Trầm Bích Vân suốt ngày ở trên núi học võ cảm thấy phiền muộn lại cho rằng vũ công của mình đã đến mức không mấy ai là địch thủ do đó đến năm bà ta mười tám tuổi bèn một mình lẻn xuống núi xông xáo vào chốn giang hồ. Nào ngờ Trầm Bích Vân chưa hề có chút kinh nghiệm trong giang hồ, dung mạo lại đẹp tựa thiên tiên, vì vậy xuống núi không bao lâu đã bị đám hiếu sắc dòm ngó, chẳng mấy chốc đã bị mấy gã dâm tặc bỏ thuốc mê trong khách sạn rồi bắt cóc đem đi. Lại chính lúc bao nhiêu hành động của đám dâm tặc đó bị Long Khiếu Phong đi qua gặp phải, gã làm tỉnh đi theo dõi phía sau, Long Khiếu Phong cũng một thân vũ nghệ, đám dâm tặc nào phải là đối thủ của gã, đợi đến lúc bọn chúng về đến sào huyệt chuẩn bị hành lạc bèn bị gã điểm huyệt ngã lăn cả đám. Long Khiếu Phong vốn cũng tính chuyện rắp tâm bắn sẻ, có điều đến lúc phát hiện ra cô gái bị bắt cóc lại là một trang sắc nước hương trời mình chưa từng gặp bao giờ, bị sắc đẹp của bà ta thu hút mê mẫn quên đi hết chuyện thanh lâu trà quán, quyết tâm cùng cô gái tuyệt sắc đó vĩNh viễn kết thành vợ chồng.

Đợi đến khi Trầm Bích Vân tỉnh lại thấy mình đang nằm trên một chiếc giường lạ lẫm bên cạnh có một gã đàn ông đẹp trai ngồi nhìn mình cười tủm tỉm lập tức hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra, bà ta vừa xấu hỗ vừa giận dữ vung tay ra đánh vào mặt Long Khiếu Phong, Long Khiếu Phong không ngờ đến chuyện bà ta chẳng thèm hỏi lấy một câu đã giang tay đánh liền, may mà gã né cũng nhanh có điều cũNg bị tạt một bên lập tức một bên mặt hiện ra một dấu bàn tay đỏ hồng. Trầm Bích Vân vẫn còn uất hận nhảy tung người dậy chồm lại đánh tiếp, vừa mở miệng mắng:

– Đồ dâm tặc! Bản cô nương liều mạng với mi!

Nói rồi song quyền liên tiếp múa lên đấm lại Long Khiếu Phong, Long Khiếu Phong lúc này đã có đề phòng bèn né người qua vừa cười vừa nói:

– Thời buổi này quả thật Cẩu Đả Lữ Động Tân, người ta không biết đến chuyện tốt bụng là gì, cô nương xem thử mấy người nằm dứoi đất kia rồi đánh tiểu sinh cũng chưa muộn.

Trầm Bích Vân bấy giờ mới phát hiện ra có mấy người đang nằm sóng soài dưới đất, bèn hét lên hỏi mới biết là Long Khiếu Phong cứu mình, bà ta nổi giận giết hết đám dâm tặc, xong thấy mình hiểu lầm Long Khiếu Phong lấy làm bối rối không biết nói sao, lại thấy gã là một người đàn ông đẹp trai phong lưu tuấn tú bất giác sinh lòng ái mộ. Còn Long Khiếu Phong lại chính là tay nhà nghề chuyện môn chinh phục trái tim đàn bà con gái, một người là thiếu nữ không hiểu nhân tình thế thái, một người là kẻ lão luyện đa tình, không mấy ngày mà Trầm Bích Vân đã bị Long Khiếu Phong lựa lời mật ngọt dụ dỗ cuối cùng tâm cam tình nguyện ngã vào vòng tay của gã.

Có điều lúc Trầm Bích Vân đem Long Khiếu Phong về Hoàng Sơn, lại bị Trầm Hạc Tiên phản đối kịch liệt, Trầm Hạc Tiên cũng đại khái hiểu con người của Long Khiếu Phong ra sao, lão không những không đồng ý chuyện hôn nhân giữa hai người còn muốn đuổi Long Khiếu Phong xuống núi, đem Trầm Bích Vân nhốt vào một nơi không cho hai người gặp nhau. Nào ngờ Trầm Bích Vân vô cùng say đắm Long Khiếu Phong liều mạng trốn nhà chạy theo tình lang, nhất định theo đuổi Long Khiếu Phong đáo để, còn Long Khiếu Phong cũng không ngờ bà ta lại có tình ý đậm đà sâu xa với mình như thế, gã vốn là một tay công tử đa tình, thấy Trầm Hạc Tiên không đồng ý cũNg chẳng bận tâm, ngờ đâu Trầm Bích Vân lại chung tình như vậy, do đó cũng động lòng, thế là gã thu kiểm hết lại tính tình phóng đãng phong lưu hết lòng hết ý kết bạn với Trầm Bích Vân phiêu lãng bốn phương trời. Trầm Hạc Tiên thấy con gái theo Long Khiếu Long không còn làm được gì hơn đành phải sai người đi tìm hai người về, lão ước định với Long Khiếu Phong ba điều ý là muốn giới hạn lại không cho Long Khiếu Phong quá phóng túng, Long Khiếu Phong cũng có tình với Trầm Bích Vân do đó nhất nhất đều tuân theo. Hai người thành hôn rồi, Long Khiếu Phong quả nhiên không đặt chân vào chốn giang hồ một bước, cắm đầu trên núi Hoàng Sơn tập luyện vũ nghệ, sinh con đẻ cái, sống một cuộc đời yên bình nhàn hạ. Hai người ở trên núi Hoàng Sơn được mấy năm ân ái mặn mà vậy mà cũng không tránh khỏi tai họa xảy đến cho mình, không những thế tai họa còn gây cho phái Hoàng Sơn từ đó về sau không còn chấn phấn như xưa, còn chưa kể xém nữa đã làm tổn thương nặng nề đến nguyên khí của một phái Hoàng Sơn.

Thì ra là, Long Khiếu Phong trước khi quen với Trầm Bích Vân, bởi vì phong lưu quen tật đi tới nơi nào cũng ong bướm ve vãn để lại không ít dấu tích, có lần gặp phải một tay nữ ma đầu cực kỳ lợi hại, tay nữ ma đầu này chính là Ngũ Độc Tiên Tử ở Miêu Gia Trại ở Miêu Lãnh Quý Châu, Ngữ Độc Tiên Tử bấy giờ còn chưa nhiệm chức trại chủ, qua lại trong giang hồ, bà ta cũng là một tay phong lưu phóng túng, hai người đụng phải nhau, một kẻ là kỳ nam tử một kẻ thèm thuồng khoái lạc đúng là một cặp oan gia, không mấy ngày mà đã khắn khít vào một chỗ. Đang lúc Ngũ Độc Tiên Tử mê đắm trong vòng tay của Long Khiếu Phong thì gã mới biết ra lai lịch của bà ta sợ muốn mất cả hồn vía, thì ra cô gái nằm trong lòng mình là một con cọp cái, Miêu Gia trại sử độc lừng danh thiên hạ giang hỗ ai nghe cũng thất kinh táng đảm, Long Khiếu Phong bấy giờ biết ra mình đang tay ấp vai kề với cọp dữ vội vàng len lén thừa dịp trốn Ngũ Độc Tiên Tử cao bay xa chạy. Long Khiếu Phong lúc chưa gặp Trầm Bích Vân còn không sao, nay đây mai đó phiêu bạc bất định, Ngũ Độc Tiên Tử tìm gã không phải là dễ, có điềugã thành hôn rồi bèn chọn núi HOàng Sơn làm nơi an cư lạc nghiệp, Ngũ Độc Tiên Tử không biết lấy tin tức từ đầu ra, lần mò lên núi Hoàng Sơn, Trầm Hạc Tiên làm sao để cho bà ta ở đó quậy phá, hai bên nói qua nói lại gây thành một trận đại chiến, Ngũ Độc Tiên Tử vũ công không những ngụy bí cao cường mà bản lãnh sử độc lại còn thần xuất quỹ một, kết quả Trầm Hạc Tiên không phải là đối thủ của bà ta, phái Hoàng Sơn nuốc phải một mối nhục lớn. Long Khiếu Phong bấy giờ lấy làm hối hận về hành vi của mình trong quá khứ, năm xưa những lời thề non hẹn biển với Ngũ Độc Tiên Tử chỉ bất quá là lời đường mật hẹn suông thế thôi, gã thấy Ngũ Độc Tiên Tử náo cả phái Hoàng Sơn lên cũng chỉ vì mình đành phải mặt dạn mày dày bước ra ủy khúc cầu tình, Ngũ Tộc Tiên Tử tuy thù hận Long Khiếu Phong phản bội mình nhưng rốt cuộc cũng là một lần ân ái với nhau, lại thấy gã đã có vợ có con mình cũNg không biết làm sao bây giờ bèn uất ức bỏ xuống núi. Còn Trầm Hạc Tiên thi`tính tình trước giờ vốn hẹp hòi, bị thua dưới tay Ngũ Độc Tiên Tử vừa tức giận vừa nhục nhã không được hết một năm đã qua đời vì uất hận, thế là Trầm Bích Vân bèn tiếp nhiệm chức chưởng môn, Long Khiếu Phong biết là tai họa nhất thiết đều do mình gây ra do đó đối với Trầm Bích Vân hết lòng hết dạ, hai người vì phải đề phòng Ngũ Độc Tiên Tử lại lên núi náo loạn lần nữa bèn đêm ngày ở lì trên núi tập luyện vũ công. Có điều sau này Ngũ Độc Tiên Tử tiếp nhiệm chức trại chủ rồi, đàn ông con trai tha hồ cho bà ta thao túng, chẳng hề nghĩ tới chuyện trở lại núi Hoàng Sơn quấy nhiễu. Phái Hoàng Sơn bị bà ta náo cho một trận từ đó về sau oai phong không còn,với lại Trầm Bích Vân lúc đó còn trẻ vũ nghệ thấp kém, phái Hoàng Sơn đành phải để mặc thanh danh mai một, dần dà ra khỏi luôn danh sách mười môn phái lớn, nhưng đó là chuyện sau này.

 
Nguyên tác: A Chí
Dịch giả: Lê Khắc Tưởng

 

Bài Cùng Tác Giả:

0 Bình luận

Bình Luận