Mọi người nhốn nháo đua nhau xuống núi Hoa Sơn, Dương Thông cũng thống lãnh bọn Giản trưởng lão về lại phân đà tây bắc. Vi Tiếu Thiên đã chết, mọi người không còn chỗ báo thù, bèn thương lượng kế hoạch bước kế tiếp, Lỗ trưởng lão nói:

– Không biết Bành trưởng lão ở Bắc Kinh đã điều tra thế nào rồi, lão bang chủ trong thành Bắc Kinh tra xét ra được chuyện Vi Tiếu Thiên cấu kết với Trung Thánh Môn, bọn chúng chắc có cứ điểm trọng yếu bí mật trong thành.

Giản trưởng lão gật đầu tán thành nói:

– Đúng thế, không những vậy Lưu lão tiền bối phái Hoàng Sơn rất có thể là điều tra ra chuyện lão bang chủ bị hại ở đó.

Dương Thông nghe nói cũng cảm thấy hai người biện luận xác đáng, y nói:

– Đúng vậy, vài ngay nữa chúng ta phải mau lại thành Bắc Kinh xem thử, không biết chừng Lưu lão tiền bối và Bành trưởng lão đã tìm ra được gì chăng.

Dương Thông thừa dịp bèn lại Tây Thục tiền trang chi phái ở Trường An hỏi thăm tin tức của Hạ Mẫn, nhưng gã chưởng quỹ ở đó liên tiếp mấy ngày cũng không tìm ra được tin tức gì của cô từ các chi trạm khác, DưƠng Thông nghe vậy không khỏi thất vọng, y lần lửa vài ngày ở đó đợi Giản trưởng lão và Lỗ trưởng lão xử lý mọi việc ở phân đà tây bắc xong xuôi rồi bèn đem theo Tống Thanh, Giản, Lỗ hai trưởng lão ra khỏi Trường An nhắm hướng Bắc Kinh tiến phát. Mọi người đi được ngày đường, bèn đến bờ sông Hoàng Hà trong thành Lạc Dương, Lạc Dương là cố đô của chín triều Đông Chu, Tây Hán, Tây Tấn, Bắc Ngụy vân vân, phía tây dựa vào Tần Lĩnh, phía bắc là Hoàng Hà, vốn nổi danh là trung tâm của Cửu Châu, đất thiêng của mười tỉnh, là nơi tranh giành trận địa thuở xưa đến giờ, cũng là nơi phồn hoa đô thị. Bốn người vào thành rồi bèn có đệ tử Cái Bang lại đón tiếp, Cái Bang ở Lạc Dương vốn được tổng đà trực tiếp cai quản, đường chủ là đệ tử của Ngô trưởng lão tên là Đổng Vân Hạo.

Bốn người vào tới phân đường Cái Bang, uống xong ngụm trà, Dương Thông hỏi thăm Đổng Vân Hạo tình hình ở Lạc Dương một hồi rồi mới hỏi qua chuyện khác:

– Gần đây có nhân vật nào khả nghi xuất hiện trong thành không ?

Đổng Vân Hạo đáp:

– Bẩm bang chủ, người khả nghi thì không có, nhưng tối hôm qua ở chùa Bạch Mã có phát hiện một chuyện lớn, thuộc hạ đã gởi tin bồ câu đi cho tổng đàn ngay lập tức, không biết bang chủ đã nhận được chưa ?

Dương Thông bèn hỏi:

– Không biết đó là chuyện gì ?

Đổng Vân Hạo cung kính trả lời:

– Lưu Hạc Tiên lão tiền bối của phái Hoàng Sơn đêm qua bị người sát hại trong chùa Bạch Mã.

Gã nói còn chưa hết lời bỗng nghe có tiếng loảng xoảng, Dương Thông quay đầu lại thấy ly trà của Lỗ trưởng lão bị đánh rớt xuống đất, Lỗ trưởng lão nhỗm người dậy hỏi tới:

– Ngươi nói gì ?Lưu lão tiền bối bị người sát hại ?

Đổng Vân Hạo gật đầu lập lại:

– Đúng vậy, Lưu Hạc Tiên lão tiền bối của phái Hoàng Sơn đêm qua bị người sát hại trong chùa Bạch Mã.

Dương Thông bốn người nghe vậy bất giác ngây người ra một hồi không ai thốt được ra lời, bốn người ngơ ngác nhìn nhau một hồi, Dương Thông thở ra một tiếng nói:

– Không ngờ chúng ta một lần nữa lại đi sau một bước!

Giản trưởng lão nói:

– Lưu lão tiền bối chắc là bị bọn Trung Thánh Môn hãm hại, bọn chúng chính là giết người bịt miệng, Lưu lão tiền bối cùng đi với lão bang chủ tra xét chuyện Trung Thánh Môn, nào ngờ bây giờ cũng bị bọn chúng hạ độc thủ.

Mọi người vốn là đến Bắc Kinh để tìm Lưu Hạc Tiên, bởi lão là người duy nhất biết tường tế về Trung Thánh Môn hơn ai cả, nào ngờ lão đã bị ám hại rồi. Giản trưởng lão hỏi:

– Pháp thể của Lưu lão tiền bối vẫn còn ở chùa Bạch Mã chứ ?

Đổng Vân Hạo gật đầu đáp:

– Còn đang quàng ở chùa, chờ đệ tử phái Hoàng Sơn lại đón.

Dương Thông đã từng gặp Lưu Hạc Tiên trong lúc tang lễ của Đoàn Nhị,thấy lão mặt mày chính khí vũ công cao cường, rất lấy làm bội phục. Lỗ trưởng lão căm hận nói:

– Bọn này chắc cũNg dùng thủ đoạn ti bỉ ám toán Lưu lão tiền bối, nếu không thì dễ gì đắc thủ, Lưu lão tiền bối vũ công không thua gì lào bang chủ.

Mọi người nghe tin ai nấy đều lấy làm đau đớn ủ rủ, Dương Thông nói:

– Lưu lão tiền bối cũng vì đi điều tra nguyên nhân cái chết của lão bang chủ chúng ta mới bị đám người đó ám hại, chúng ta phải lại cúi đầu tạ ơn và đưa tiễn lão tiền bối vê chín suối.

Bọn Lỗ trưởng lão, Giản trưởng đều lớn tiếng tán đồng.

Chùa Bạch Mã nằm giữa Mang Sơn và Lạc Thủy, là một tòa cổ sát có tự ngàn năm, kiến tạo khoảng năm 68, cũNg là một nơi phát nguyên của Phật giáo, là ngôi chùa đầu tiên lúc đạo Phật mới truyền nhập vào Trung Nguyên. Tương truyền năm thứ bảy Vĩnh Bình thời Đông Hán, Hán Minh Đế Lưu Trang ban đêm nằm mộng thấy một kim nhân thân cao một trượng sáu, đeo vòng bạc quanh cổ, bay vòng chung quanh cung điện, hôm sau vua bèn chiêu tập quần thần hỏi ý, đại thần Bác Nghị tấu rằng:

– Phương tây có thần, tên gọi là Phật, hình dạng như lời bệ hạ đã thấy trong mộng.

Thế là Hán Minh Đế bèn phái trung lang tướng Tần Cảnh mười mấy người đi Thiên Trúc tìm Phật pháp. Bọn Tần Cảnh đi đến nước Đại Nguyệt Thị, gặp hai học giả Phật giáo trứ danh là Thiên Trúc cao tăng Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, bèn mời hai người về nước truyền giáo. Năm 67, hai vị cao tăng dùng ngựa trắng tải kinh Phật và tượng Phật của Thích Ca Mâu Ni về tới Lạc Dương, đem kinh Phật dịch ra tiếng Hán, truyền đạo bắt đầu từ đó. Hán Minh Đế chiếu theo dạng thức của cung điện của Thiên Trúc xây dựng chùa chiền ngoài thành Lạc Dương cho hai vị cao tăng cư trú, phía ngoài khắc tượng hai con ngựa trắng để kỷ niệm công lao hai con ngựa tải kinh, và đặt tên cho chùa là Bạch Mã. Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan hai người lúc ở chùa Bạch Mã đã từng bị Đạo giáo chống đối, hơn sáu trăm gã đạo sĩ cùng dâng sớ lên Hán Minh Đế xin bãi bỏ chuyện truyền đạo Phật đuổi hai người đi, Hán Minh Đế không biết làm sao, cuối cùng bèn lấy pháp thuật ra quyết định chuyện bãi bỏ Phật giáo, vua tuyên bố trong ngày đầu năm sẽ thiết pháp đàn ở chùa Bạch Mã, dùng biện pháp hỏa thiêu kiểm nghiệm đạo Phật, Đạo giáo kinh thư, pháp lực bên nào giả bên nào thật. Thế là ngày đầu năm đó, ngoài chùa Bạch Mã bách tính quần thần ai nấy nhốn nháo đua nhau lại xem nhiệt náo. Phía đông pháp đàn để Tứ Thập Nhị Chương Kinh và tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, phía tây để kinh thư Đạo giáo hơn sáu trăm quyển. Hán Minh Đế hạ lệnh, lập tức hai bên lửa cháy lên bừng bừng, hai bên đều cất tiếng tụng niệm, kết quả phía tây ngoài bộ Đạo Đức Kinh ra, tất cả đều bị thiêu rụi ra tro bụi, còn phía đông kinh Phật và tượng Phật vẫn hoàn hảo, không những thế còn phản ánh kim quang trong lửa đỏ, thành tường quang ngũ sắc, ai nấy đều vô cùng thán phục, thế là đạo Phật hưng thịnh. Đến đời nhà Đường, Đường Huyền Trang pháp sư lấy kinh từ Thiên Trúc về, cũng dịch kinh Phật ra ở chùa Bạch Mã, do đó chùa Bạch Mã trở thành ngôi cổ sát nổi tiếng gần xa, hương hỏa không ngớt từ đời này sang đời khác. Trụ trì chùa bấy giờ là Liễu Không đại sư là một vị cao tăng đắc đạo thâm thông Phật pháp, Dương Thông đã từng nghe Đoàn Nhị đề cập đến, Liễu Không đại sư được dân chúng trong vùng ái mộ tôn trọng, mỗi lần Hoàng Hà ngập lụt, nhà sư đem đồ dự trữ trong chùa ra chẩn tế người dân bị nạn.

Lưu Hạc Tiên phái Hoàng Sơn thình lình mất mạng ở chùa Bạch Mã thật làm cho bọn Dương Thông kinh ngạc bội phần, trước đó không lâu lão có lại than dự tang lễ của Đoàn Nhị, còn nói cho mọi người biết chuyện lão cùng Đoàn Nhị truy cứu lai lịch bọn Trung Thánh Môn, Dương Thông vốn đinh ninh sẽ lại Bắc Kinh hỏi thăm lão về bọn Trung Thánh Môn, nào ngờ lão lại bị hại thình lình, đường giây mối nhợ từ lão một nhát đứt tiêu. Ngày hôm sau, Dương Thông cùng hai vị Lỗ,Giản trưởng lão và Tống Thanh cùng đến chùa Bạch Mã, chùa nằm phía tây thành Lạc Dương ngoài cửa Ung Môn, xa xa nhìn lại chỉ thấy chùa chiền lô nhô, mái xanh tường đỏ nguy nga tráng quan, tháp cao vượt khỏi tầng mây, trong đại điện văng vẳng vọng lại tiếng chuông ngân. Bọn DưƠng Thông đến trước cổng chùa bèn dưa thiệp bái kiến Liễu Không đại sư, hòa thượng trong chùa vội vã chạy vào báo, không lâu sau đó, một lão tăng râu tóc bạc phơ mặt mủi hiền hòa bước ra nghinh tiếp. Dương Thông thấy lão tăng e có tới hơn tám mươi tuổi, mặc chiếc cà sa màu đỏ viền kim tuyến, lão tăng thủng thẳng đi lại cổng chùa, hướng bọn Dương Thông chắp tay hành lễ nói:

– A Di Đà Phật, chúng vị anh hùng Cái Bang quang lâm tệ tự, lão nạp không nghinh đón kịp, tội quá! Tội quá!

DưƠng Thông đoán lão là Liễu Không đại sư, bèn hoàn lễ đáp:

– Không dám, vãn bối là Dương Thông, cùng hai trưởng lão Cái Bang Giản Thông, Lỗ Hữu Đức, Tống Thanh bái kiến Liễu Không đại sư, bọn tại hạ mạo muội đến thăm, quấy nhiễu đại sư tu hành, xin đại sư thứ tội.

Bọn Lỗ trưởng lão cùng bước lại hành lễ, Liễu Không đại sư trịnh trọng đáp lễ lại và nói:

– Các vị quý khách quang lâm tệ tự thật làm cho tệ tự vinh dự sáng lạng quá rồi! Dương bang chủ và các vị anh hùng xin mời vào chùa dùng trà.

Bốn người đi theo Liễu Không đại sư vào đại điện bèn thấy bên trong huy hoàng vàng rực xanh rực, chính giữa pho tượng Thích Ca Mâu Ni trang nghiêm bảo tướng, đi hết đại điện vào tới hương phòng, có chú tiểu đem trà ra mời. Mọi người ngồi uống trà một lát, Dương Thông bèn nói:

– Vãn bối đến đây thật có một chuyện nhờ đại sư chỉ đường tìm lối.

Liễu Không đại sư nói:

– A Di Đà Phật! DưƠng bang chủ có phải là vì chuyện điều tra Lưu Hạc Tiên phái Hoàng Sơn bị hại mà đến đây phải không ?

DưƠng Thông gật đầu đáp:

– Chính vậy, Lưu tiền bối cách đây không lâu cùng ân sư tại hạ điều tra lai lịch một tổ chức thần bí trong giang hồ có tên là Trung Thánh Môn, nào ngờ ân sư bất hạnh bị bọn họ ám hại, rồi lại không ngờ Lưu tiền bối bây giờ cũng chết bất ngờ, không biết Lưu lão tiền bối làm sao bị bọn họ ám hại ? Xin đại sư nói rõ dùm cho bọn tại hạ được nghe để tiện bề truy cứu hung thủ, vãn bối may ra còn báo thù được cho Lưu lão tiền bối.

Liễu Không đại sư nghe vậy bèn thở ra đáp:

– Lão nạp và Đoàn thí chủ cũng có vài cơ duyên gặp gỡ, tiếc thay ông ta bị người ám hại, lão nạp thật lấy làm đau lòng, Lưu Hạc Tiên tuy bị ngộ hại trong chùa nhưng e là lão nạp cũng không biết nhiều chuyện gì đã xảy ra! Lão nạp chỉ đem chuyện gì biết được nói hết cho Dương bang chủ nghe, hy vọng giúp được Dương bang chủ điều gì chăng.

DưƠng Thông vòng tay cảm tạ:

– Đa tạ đại sư!

Liễu Kho6ng đại sư uống một ngụm trà rồi nói:

– Lão nạp khi còn trẻ đã từng đầu thân vào phái Hoàng Sơn với Lưu Hạc Tiên, Lưu Hạc Tiên bái ân sư là Hoàng Sơn lão tẩu làm thầy, sau này lão nạp ra khỏi phái Hoàng Sơn, cắt tóc đi tu nơi đây, mấy chục năm trời rất ít qua lại với hai người.

Bọn Dương Thông nghe vậy đều giật mình, mọi người đều biết Lưu Hạc Tiên và Trầm Hạc Tiên ba mươi năm trước nổi danh là Hoàng Sơn Song Kiệt, là hai tên đệ tử đắc ý của chưởng môn Hoàng Sơn lão tẩu, nhưng lại không ngờ Liễu Không đại sư cũng xuất thân từ phái Hoàng Sơn, không những vậy còn đầu thân vào chùa Bạch Mã đi tu không biết vì lẽ gì, có điều ai nấy đều không dám mở miệng hỏi.

Liễu Không đại sư lại tiếp tục:

– Lưu sư huynh thình lình đến chùa chúng tôi, sư huynh nói có nghe một gã dâm tặc áo đen trước khi chết nói bốn chữ ‘Long Môn Thạch Quất’, sư huynh nói gã này là giáo chúng của Trung Thánh Môn, vì vậy sư huynh muốn lại Long Môn Thạch Quất xem thử, còn hỏi thăm lão nạp kỹ càng đường đi. Mấy hôm nay sư huynh liên tục lại nơi đó hỏi thăm, nhưng không nghe nói phát hiện gì khả nghi, đêm trước sư huynh về, nói là đã thăm dò hết mọi chuyện mà vẫn chưa có kết quả gì, ngờ đâu tối đó bỗng bị ám hại trong chùa, thật là tội quá! Tội quá!

Dương Thông hỏi:

– Lưu lão tiền bối bị ám hại ra sao ?

Liễu Không đại sư đáp:

– Tối đó đã tới canh ba, lão nạp bỗng nghe Lưu sư huynh hét lớn trong phòng ‘ác tặc giỏi thật’, tiếp theo đó bèn nghe có tiếng đánh nhau, lão nạp vội vàng chạy qua, vừa lúc thấy có một người áo đen bao mặt nhảy từ song cửa ra khỏi phòng Lưu sư huynh, lão nạp thấy gã thân hình cao lớn biết là không phải Lưu sư huynh bèn bước lại cản, nào ngờ người này vũ công cực kỳ lợi hại, lão nạp giao đấu với gã chưa tới hai mươi chiêu bị chưởng lực của gã chấn thương, ác tặc thấy mọi người đã tỉnh giấc chạy ra bèn nhảy lên nóc nhà biến mất, lão nạp bị đánh trọng thương không thể đuổi theo truy nã.

Mọi người nghe nhà sư nói ngấm ngầm kinh hãi, Dương Thông lại hỏi:

– Liễu Không đại sư, quý tự ngoài đại sư ra còn có ai biết vũ công không ?

Liễu Không đại sư lắc đầu đáp:

– Trong chùa ai nấy đều chuyên tâm tu hành Phật pháp, không có ai luyện tập vũ công, trừ lão nạp ra các đệ tử khác đều là tăng nhân trói gà không chặt, chứ không thì gã ắc tặc đó khó mà đào thoát.

Giản trưởng lão nói:

– Đại sư có nhận ra được vũ công gia số của tên ác tặc không ?

Liễu Không đại sư lắc lắc đầu đáp:

– Vũ công của hắn vô cùng ngụy bí, chiêu số lại rất cổ quái, không những vậy còn độc ác mãnh liệt, lão nạp không biết vũ lâm trung nguyên có môn phái nào vũ công ngụy bí ác độc như vậy.

Dương Thông lại hỏi:

– Không biết đại sư bị thương chỗ nào, tại hạ có thể xem thử được không ?

Liễu Không đại sư nói:

– Được!

Nói rồi cởi cà sa ra để lộ trước ngực, mọi người thấy trước ngực nhà sư có một dấu ấn bàn tay đen như mực, chung quanh đều sưng đỏ cả lên.

Dương Thông nhìn vào giật nảy mình, Lỗ trưởng lão cũng kêu lên:

– Lại là công phu Thiết Sa chưởng của bọn ác độc kia!

Giản trưởng lão nói:

– Công phu Thiết Sa chưởng chỉ có bọn Quỹ giáo năm xưa mới biết, không lẽ là Hắc Vô Thường Tang Thiên Ác sao ?

Dương Thông ngẫm nghĩ rồi lắc đầu nói:

– Chắc không phải lão ta đâu, tên này bị tôi dùng kim châm làm tổn mất nguyên khí, không thể nào hồi phục nhanh chóng đến mức đó, ít ra là phải nửa năm nữa hắn mới dám động thủ với người khác.

Tống Thanh nói:

– Bọn Quỹ giáo tà môn vũ công rất nhiều, không chừng bọn chúng có phương pháp trong thời gian ngắn có thể hồi phục nguyên khí không biết chừng ?

Dương Thông không đáp, quay qua Liễu Không đại sư thò tay ra nói:

– Đại sư, vãn bối có biết chút ít về y thuật, có thể cho vãn bối xem thử thương thế của đại sư được không ?

Liễu Không đại sư đáp:

– Được!

Nói rồi đưa ta phải tới, Dương Thông dùng ngón trỏ và ngón giữa để vào cổ tay nhà sư xem mạch, cảm thấy mạch nhảy có phần tán loạn, có điều thấy còn có một cổ nội lực hùng hậu đang hoạt động, biết là nhà sư đang dùng nội lực đề kháng lại chất độc trong Độc Sa chưởng. Dương Thông lắc đầu nói:

– Nhất định không phải là tên Hắc Vô Thường đó, tên này vũ công còn trên cả Hắc Vô Thường, e là tôi cũng không phải là đối thủ của hắn.

Bọn Lỗ trưởng lão nghe y nói vậy không khỏi kinh hãi trong lòng, Dương Thông lúc này vũ công đã đạt tới mức đăng phong tạo cực, trong giang hồ chẳng mấy ai là đối thủ, mà người này vũ công còn cao hơn cả y, ai nấy đều không thể tưởng tượng nổi. Dương Thông thăm dò được trong lúc bắt mạch cho LiễU Không đại sư, biết vũ công của lão không thua gì Hắc Vô Thường, thật không ngờ có kẻ vũ công lợi hại đến dường đó, mà Liễu Không đại sư một kẻ đọc hết kinh sách nhà Phật lại là tay vũ công cao cường, cũng may là vậy nếu không nhà sư lúc này đã sớm bị chất độc phát tác bỏ mạng từ lâu.

Dương Thông ngấm ngầm bội phục nội lực của Liễu Không đại sư, y biết nếu không trị liệu chất độc trong người nhà sư, chất độc ở trong cơ thể lâu ngày sẽ làm tổn thương đến kinh mạch, lúc đó vũ công và nội lực sẽ bị tổn thất rất trầm trọng. Dương Thông bèn nói:

– Thứ Độc Sa chưởng này vô cùng độc hại, may mà nội lực đại sư thâm hậu, chất độc chưa đi vào nội tạng lục phủ, có điều để lâu một thời gian nữa, đối với thân thể rất có hại, vãn bối tính dùng kim châm để lấy chất độc trong người đại sư ra, xin đại sư thả tung toàn thân huyệt đạo vãn bối mới xuống châm được.

Liễu Không đại sư chắp tay cảm tạ Dương Thông rồi ngồi xếp bằng ngay ngắn trên bồ đoàn, Dương Thông lấy trong người ra hộp kim châm, trở áo cà sa cắm kim vào Thông Cốc, U Môn, Kỳ Môn mấy chỗ huyệt đạo trên người nhà sư, máu độc bắt đầu chảy từ trong kim ra, Dương Thông ám vận nội lực, thình lình một chưởng đánh vào huyệt Linh Đài của nhà sư, Liễu Không đại sư ọe lên một tiếng mửa ra một búng máu bầm, lập tức cảm thấy trước ngực khỏe khoắn lại rất nhiều, đống máu bầm đó nằm ứ trong ngực nhà sư không cách nào bức ra được, trong ngực lúc nào cũng cảm thấy khó thở buồn mửa, bây giờ Dương Thông một chưởng ép máu bầm ra khỏi người lập tức tinh thần sảng khoái không sao tả xiết.

Dương Thông nhìn nét mặt nhà sư là biết trong phổi đang bị ứ máu bầm, không bức máu bầm ra không thể nào trị được, để lâu sẽ bị tổn thương đến nội tạng, do đó trước hết y giúp nhà sư nắn bóp các chỗ huyệt đạo rồi thình lình xuất kỳ bất ý đánh ra một chưởng, nhà sư bất ngờ cảm thấy đau đớn kịch liệt mở miệng ra la lên một tiếng lớn, mửa đống máu bầm ra, nếu nói biết trước không chừng lại không bức ra được. Lối trị liệu này y đã học được từ cuốn sách Kim Châm Thánh Thủ đã tặng cho, Dương Thông thấy mình đã ép được máu bầm ra nhưng y vẫn tiếp tục truyền nội lực vào, miệng nói:

– Đại sư xin hãy vận công bức chỗ độc còn lại ra ngoài đầu ngón tay.

Liễu Không đại sư nghe vậy không dám chậm trễ vội vã vận khí vào đan điền, sau đó từ từ dẫn ra các chỗ huyệt đạo, nhà sư cảm thấy được một cổ nội lực hồn hậu từ ngón tay Dương Thông truyền chầm chậm vào người mình, lập tức các chỗ huyệt đạo trong người lưu chuyển không còn bị trở ngại như trước, đẩy chất độc ra khỏi người dễ dàng. Dương Thông thấy mấy ngón tay nhà sư từ từ biến thành đen ngòm biết là nhà sư đã làm xong bèn lấy kim châm chích vào đầu ngón tay nhà sư rút hết máu bầm ra, sau đó thu lại nội lực. DưƠng Thông biết là chất độc trong người nhà sư đã được giải trừ, nghỉ ngơi một thời gian mười ngày nửa tháng là không có gì đáng ngại nữa.

Liễu Không đại sư đi rửa tay đâu vào đó rồi chắp tay làm lễ nói:

– Lão nạp đa tạ Dương bang chủ đã có ơn giúp đở một tay.

Dương Thông cười nói:

– Có gì khó nhọc đâu, đại sư đừng để tâm.

LiễU Không đại sư nói:

– Không ngờ Dương bang chủ tuổi tác còn nhỏ mà nội lực lại thâm hậu dường đó, thất là đáng mừng, quả thật trường giang lớp sóng sau đẩy lớp sóng trước, người mới thắng đứt người cũ quá rồi!

Dương Thông thấy chất độc trong người nhà sư đã được tẩy trừ bèn nói:

– Đại sư, bọn vãn bối muốn lại thăm di thể của Lưu lão tiền bối, tế tôn người một phen, không biết có được không ?

Liễu Không đại sư đứng dậy nói:

– Tốt lắm! Dương bang chủ và các vị xin theo lão nạp ra hậu đường.

Nói rồi nhà sư dẫn bọn Dương Thông vào một gian phòng ở hậu đường phía sau, chỉ thấy trong phòng có bày một cổ quan tài, LiễU Không đại sư sai người gỡ nắp quan tài ra, Dương Thông thấy mặt mủi của Lưu Hạc Tiên còn đang lộ vẻ giận dữ, mắt trừng lên tròn xoay, khóe miệng và lỗ mủi thì có máu rỉ ra, da dẻ đen sì, bộ dạng vô cùng khủng bố.

Dương Thông và đám trưởng lão đứng trước quan tài làm lễ đâu vào đó, Dương Thông bèn hỏi:

– Thỉnh vấn đại sư, Lưu lão tiền bối trúng phải thứ độc gì ?

Liễu Không đại sư lắc lắc đầu đáp:

– Lão nạo cũng không biết, lão nạp bị tên bao mặt áo đen đánh cho bị thương rồi, tên đó cũng đào tẩu mất, lão nạp và mấy tên đệ tử chạy lại phòng thì thấy Lưu sư huynh đã ngã gục chết trên mặt đất, lúc đó lão nạp đã tra xét khắp nơi trên người Lưu sư huynh, không thấy có ám khí gì trúng vào, chỉ thấy sư huynh bị trúng sau lưng một chưởng, dấu ấn cũNg như hệt như của lão nạp, đại khái chắc là chết vì nhát chưởng đó.

Dương Thông lắc lắc đầu nói:

– Lấy vũ công của Lưu lão tiền bối mà nói, hung thủ không thể trong mấy chục chiêu có thể lấy mạng được Lưu tiền bối, xem vẻ mặt của người, chắc là trúng độc trước rồi sau đó mới bị tên kia dùng độc chưởng ám hại sau lưng.

Dương Thông đã từng giao thủ với Lưu Hạc Tiên do đó y biết vũ công của lão còn cao hơn Liễu Không đại sư, nhất định không thể bị giết hại dễ dàng như vậy. Dương Thông thấy nét mặt của Lưu Hạc Tiên cùng với Thanh Mộc đạo trưởng và Tuệ Đồi sư thái tình cảnh rất tương tự, bèn nói với LiễU Không đại sư:

– Đại sư, vãn bối muốn xem kỹ pháp thể của Lưu lão tiền bối.

Liễu Không đại sư gật gật đầu nói:

– Được!

Nhà sư bèn nói người đem di thể của Lưu Hạc Tiên ra khỏi quan tài, Dương Thông móc trong người ra cái chén mẻ có nam châm, theo đúng thủ pháp của Đoàn Nhị rà khắp người Lưu Hạc Tiên một lượt, quả nhiên ở Đại Duy huyệt, Ngọc Chẩm huyệt và Linh Đài huyệt, hút ra ba mủi độc châm nhỏ như nọc ong, ba mủi độc châm nằm trong chén mẻ lóng lánh lên màu xanh thẫm.

Lỗ trưởng lão và Giản trưởng lão thấy ba mủi độc châm đều giật nãy mình. Lỗ trưởng lão nói:

– Quả nhiên lại là Băng Tàm Đoạt Mệnh Châm.

Dương Thông gật đầu nói:

– Đúng thế, nhất định là độc thủ của bọn Di Lặc giáo.

Liễu Không đại sư nghe nói cũng than lên một tiếng:

– Nói vậy thì kẻ sát hại Lưu sư huynh chính là bọn Di Lặc giáo.

Nói rồi nhà sư móc trong người ra một tấm vải trắng rồi trải ra, một vầng mặt trời đỏ sáng rực rỡ hiện ra trước mắt mọi người, LiễU Không đại sư hỏi:

– Dương bang chủ đã từng thấy qua thứ này bao giờ không ?

Dương Thông thấy nhà sư móc tấm vải ra đã dự đoán được mấy phần, thấy tấm vải đó không khác gì với Thánh Hỏa Liệt Nhật Kỳ mình thấy trên núi Võ Đang và Hoa Sơn, không những thế trên lá cờ cũng dùng máu viết mấy dòng chữ lớn “theo ta thì vinh hiển, nghịch ta thì chết”, bèn gật đầu rồi hỏi:

– Đại sư, lá cờ này cũng phát hiện trên người Lưu tiền bối sao ?

Liễu Không đại sư gật đầu đáp:

– Đúng vậy, lão nạp tính là đợi người của phái Hoàng Sơn lại đây rồi mới đưa ra, lão nạp mới đầu cũng đã hoài nghi bọn Di Lặc giáo làm chuyện này, bây giờ Dương bang chủ cũNg nghĩ như vậy, xem ra nhất định là bọn chúng không nghi ngờ gì nữa.

Liễu Không đại sư sợ mọi người không hiểu lai lịch của lá cờ bèn giải thích:

– Lá cờ này lúc trước lão nạp cũNg chưa hề thấy qua, chỉ nghe nói thế thôi, tương truyền nó là lá cờ của Ma Ni giáo ở Tây Vực cuối thời nhà Đường, Ma Ni giáo tôn kính mặt trời, dùng thánh hỏa làm lệnh bài, còn có tên là Quang Minh giáo và Di Lặc giáo, bọn họ sùng kính thái dương, xem Di Lặc phật tổ là thần, triều nhà Nguyên ôn dịch hoành hành ở Giang Tây Viên Châu, Viên Châu Nam Tuyền Sơn chùa Từ Hóa có một hòa thượng tên là Bành Doanh Ngọc, phát hiện ở Nam Tuyền Sơn có một con suối nước khoáng, người bệnh uống vào bệnh tình thuyên giảm ngay lập tức, thế là ông ta được bách tính tôn lên làm thần tiên, Bành Doanh Ngọc thấy triều nhà Nguyên vô đức vô tài, bách tính không được an cư lạc nghiệp, bèn bí mật đi truyền giáo khắp nơi bắt đầu từ Viên Châu, mỗi đến cuối ngày, ông ta đốt đuốc chiêu tập tín đồ đốt hương bái Phật, sau đó ông ta tuyên giảng Phật pháp, giảng rằng Di Lặc Phật sẽ cứu khổ cứu nạn, giải cứu bách tình ra khỏi lầm than cơ cực. Sau này Di Lặc giáo phát triển thần tốc cùng liệt ngang hàng với Minh giáo và Bạch Liên giáo thành là ba đại giáo phái. Bành Doanh Ngọc cử hành khởi nghĩa ở Tân Hoàng, lá cờ của nghĩa quân thêu một vầng mặt trời đỏ chói, cũng chính là lá cờ ở đây.

Liễu Không đại sư lúc lắc lá cờ trong tay miệng nói:

– Sau này Bành Doanh Ngọc hòa thượng bị tử nạn trong chiến trận, người thay thế lãnh đạo quân khởi nghĩa là Minh Ngọc Trân, tại một dãi đất ở Tứ Xuyên dựng lên nước Đại Hạ, lấy lá cờ này làm quốc kỳ, thờ phụng Bành Doanh Ngọc làm tổ sư, tôn Di Lặc giáo làm quốc giáo, quy định bách tính ai ai cũng là tín đồ của Di Lặc giáo, có điều nước Đại Hạ tồn tại được không tới mười năm, bị Thái Tổ hoàng đế Châu Nguyên Chương phái binh lại đánh, diệt tan cả nước, Di Lặc giáo bèn rút vào biên giới Xuyên Tạng bí mật truyền giáo trong núi non rừng thẫm, gần trăm năm nay không hề nghe tin tức bọn họ trong giang hồ, chỉ dựa vào lá cờ đấy không thôi lão nạp cũng không dám tin là do người Di Lặc giáo làm, bây giờ thấy Dương bang chủ cũng cho là vậy, lão nạp mới dám xác định.

Dương Thông nghe nhà sư nói bấy giờ mới hiểura lai lịch của nước Đại Hạ, Lỗ trưởng lão nói:

– Bọn Di Lặc giáo đã giết hại không biết bao nhiêu người rồi, lão bang chủ của chúng tôi chính là bị bọn chúng ám hại, còn có Tuệ Đốn sư thái phái Hoành Sơn, Thanh Mộc đạo trưởng phái Võ Đang, Vi Tiếu Thiên phái Hoa Sơn vân vân, không lẽ đại sư còn chưa nghe tới ?

Liễu Không đại sư lắc lắc đầu, chắp tay lại niệm:

– Tội quá! Tội quá!

Nhà sư ẩn cư trong chùa bao nhiêu năm nay, không hỏi han đến thế sự, do đó đối với mọi chuyện thị phi trong giang hồ không hề hay biết mảy may.

Dương Thông nói:

– Đúng thế, Liễu Không đại sư, bọn Di Lặc giáo này tâm địa gian ác cay độc, bọn chúng đã hạ thủ giết Lưu lão tiền bối nơi này, nhất định sẽ còn trở lại, vãn bối nghĩ đại sư từ rày về sau phải đề phòng cẩn thận.

Liễu Không đại sư thở ra nói:

– Lão nạp thì chẳng sao cả, chỉ e hơn trăm đệ tử trong chùa, không ai biết vũ công, không biết làm sao bây giờ ?

Lỗ trưởng lão nói:

– Chúng ta nên ở lại đây xem thử bọn Di Lặc giáo còn dám làm chuyện gì ?

Dương Thông nói:

– Đây cũng không phải là biện pháp lâu dài.

Liễu Không đại sư nói:

– Xem ra lão nạp đành phải phái người lên Tung Sơn cầu viện Trí Không phương trượng, thỉnh cầu người đem tăng chúng biết vũ công lại bảo hộ chùa Bạch Mã qua cơn tai ách đại nạn này.

Mọi người nghe nói ai nấy cũng đều tán thành bởi vì chùa Bạch Mã cũng gần chùa Thiếu Lâm, thế là bốn người đêm đó ở lại chùa nghỉ ngơi, qua đêm cũng không có chuyện gì khác lạ. Ngày hôm sau, Dương Thông quyết định đến Long Môn Thạch Quất ở Lạc Dương xem thử phát hiện ra được gì không. Bốn người thấy trời sáng liệu chừng bọn Di Lặc giáo không lại chùa Bạch Mã hành hung, do đó bọn Dương Thông bốn người ăn sáng xong bèn nhắm Long Môn Thạch Quất khởi hành, chưa đến một tiếng đồng hồ thì đã đến nơi.

 
Nguyên tác: A Chí
Dịch giả: Lê Khắc Tưởng

 

Bài Cùng Tác Giả:

0 Bình luận

Bình Luận